Như
một thông lệ vào những ngày gần cuối Tháng Tư trong năm, ông Hòa thường
lấy ra tập nhật ký viết về biến cố Tháng Tư 1975 ra đọc. Tập nhật ký
này không phải của ông. Ông không viết một chữ nào, cũng không ghi chú
một lời nào trong tập nhật ký với khổ giấy 8x10, mà những trang giấy
trắng đã phai màu theo thời gian.
Ông Hòa nhớ lại cách đây gần 25 năm, lúc dọn vào căn apartment ở
thành phố Westminster, ông đã nhặt được tập nhật ký này trong đống rác ở
phía sau nhà.
Thời gian lướt qua với biết bao công việc lo toan cho cuộc sống
mới, ông Hòa gần như quên tập nhật ký vẫn còn nằm trong tủ sách. Ðể từ
đó ông trở thành chủ nhân bất đắc dĩ tập nhật ký, kể lại những sự kiện
liên quan đến biến cố trọng đại của người Việt tỵ nạn trên khắp năm
châu.
Nhân vật ghi chép tập nhật ký này là chàng sinh viên năm thứ ba ở
đại học Luật Khoa Sài Gòn và đối tượng của chàng là một cô sinh viên
năm dự bị, tên Mỹ Linh, ở đại học Văn Khoa Sài Gòn.
Ðọc nhiều lần tập nhật ký ông Hòa gần như thuộc lòng truyện tình
hai người, trai Luật khoa, gái Văn khoa và do đó sau này ông chỉ đọc
những đoạn có liên hệ đến biến cố Tháng Tư 1975 mà thôi.
Cũng giống như những năm trước, năm nay sau đúng 40 năm ngày Việt
Nam Cộng Hòa sụp đổ, ông Hòa lôi ra tập nhật ký, đọc chậm rãi như muốn
nuốt từng lời, từng chữ, thả hồn về quá khứ xa xưa, để ghi nhớ và tưởng
niệm đến các anh hùng nghĩa sĩ đã anh dũng bỏ mình vì dân vì nước.
***
Ngày Thứ Tư, 2 tháng 4 năm 1975: Khoảng gần 10 giờ sáng tôi có mặt
trong lớp học hai giờ Dân Luật với Giáo Sư Vũ Quốc Thông. Tin Cộng quân
đã chiếm Nha Trang được lan truyền nhanh trong lớp. Vừa nghe xong tôi
bay ra khỏi lớp, chạy nhanh qua đại học Văn Khoa tìm Mỹ Linh. Bước nhanh
lên lầu ba, tôi ngó quanh khắp giảng đường, không thấy bóng dáng Mỹ
Linh ngồi trong đó. Trông thấy tôi đứng dáo dác nhìn quanh tìm Mỹ Linh,
cô bạn của Mỹ Linh bước ra cho biết Mỹ Linh không đến lớp vào sáng nay.
Tôi nói cám ơn cô ta và vội vàng phóng xe nhanh đến nhà dì của Mỹ Linh,
nơi hai chị em nàng đang ở trọ nằm trên đường Ðinh Tiên Hoàng. Khuôn mặt
Mỹ Linh đỏ hoe, bước ra mở cổng. Trông nàng thảm não và buồn đau vì mất
tin tức mẹ cha, tôi cảm thấy thương yêu nàng quá đỗi và tự nhủ sẽ không
lìa xa nàng trong bất kỳ tình huống tồi tệ nào xảy ra.
Ngày Thứ Tư, 9 tháng 4 năm 1975: Tất cả nhật báo đều loan tin Sư Ðoàn
18 đóng ở tỉnh Long Khánh, đã oanh liệt đẩy lui sự tấn công của Quân
Ðoàn 4 Bắc Việt muốn thôn tính thị xã Xuân Lộc.
Sau giờ học buổi chiều ở Luật khoa, tôi ngồi đấu láo với đám bạn ở
quán cà phê Thu Hương. Trước chiến thắng của sư đoàn 18 do Chuẩn Tướng
Lê Minh Ðảo chỉ huy, tôi nhận thấy đám bạn tôi đều lạc quan và tin tưởng
miền Nam không thể rơi vào tay Cộng quân. Chỉ riêng tôi lo lắng và bi
quan trước tình hình nguy kịch của đất nước và nêu thắc mắc tại sao
chính phủ không đóng cửa tất cả các trường trung và đại học và ban lệnh
Tổng Ðộng Viên trên toàn quốc?
Ngày Thứ Hai, 14 tháng 4 năm 1975: Mỹ Linh tan lớp học lúc 10 giờ và
theo tôi vào ngồi uống nước trong câu lạc bộ trường Văn Khoa. Tại đây
tôi nói với nàng do bởi tình hình chiến tranh căng thẳng, trường đại học
Văn Khoa vừa ra thông cáo kỳ thi cuối năm được tổ chức sớm hơn thông lệ
và sẽ tổ chức vào đầu Tháng Sáu.
Nói xong tôi bảo nàng đưa thẻ sinh viên để tôi ghi danh dự thi cuối
khóa giùm nàng, bởi tôi có người bạn là thành viên trong ban đại diện
của niên khóa này và đang phụ giúp việc ghi danh.
Ðưa tấm thẻ sinh viên cho tôi, nàng rầu rĩ kể tôi nghe vừa được thư
của người anh ruột đang làm việc ở thành phố Washington DC, nói rằng ở
bên Mỹ đang chuẩn bị giăng lều, căng trại đón người thua trận, bởi miền
Nam sắp sửa kết thúc như Campuchia vậy. Do đó anh nàng sẽ gởi giấy tờ để
bảo trợ nàng đi qua Mỹ du học.
Tôi ngồi lặng im, tiếp tục lắng nghe nàng cho biết ông giáo sư người
Mỹ đã nói riêng với nàng rằng tình hình miền Nam càng ngày càng thê thảm
và có thể hạ màn vào cuối Tháng Tư này. Sau đó ông ta trân trọng hỏi
nàng chịu đi Mỹ với ông ta hay chăng? Tôi chưa kịp hỏi nàng trả lời ra
sao, thì Mỹ Linh còn cho tôi biết thêm người chị của nàng là Mỹ Lan hiện
làm việc cho cơ quan DAO ( Defend Association Organization), có thể dẫn
nàng đi nếu tình thế đến hồi kết cuộc.
Lòng tôi tê tái và se thắt lại khi nghe nàng nói như thế, nàng có
nhiều cơ hội sang Mỹ và tôi sẽ phải xa nàng. Tình tôi đối với nàng càng
ngày càng đậm sâu và tự nghĩ sau này không gặp được nàng, cuộc đời chắc
vô vị lắm! Nhìn thấy khuôn mặt tôi đượm nét không vui, Mỹ Linh nắm tay
tôi, mếu máo nói tiếp, ngày nào chưa biết tin tức của song thân nàng vẫn
chưa muốn đi đâu hết.
Nghe nàng nói như vậy tôi cảm thấy an tâm và nhẹ nhõm, bởi vì tôi
không muốn xa nàng, mất nàng. Lúc đưa Mỹ Linh về nhà, chiếc xe chạy
ngang qua Tòa Ðại Sứ Mỹ, tôi đã thấy có một số người đứng xếp hàng một ở
bên ngoài, chờ đợi vào bên trong lập thủ tục chuẩn bị rời nước ra đi.
Lòng tôi cảm thấy xốn xang và buồn đau quá!
Chiến tranh còn đang tiếp diễn, Sư Ðoàn 18 ở Xuân Lộc đang anh dũng
chống trả Cộng quân, thế mà các nhân viên làm việc cho các cơ quan Mỹ
đang lặng lẽ chuồn khỏi nước. Hơn hai tuần sau ở Subic Bay tôi tình cờ
gặp ông thầy dạy ở Luật khoa, đã tiết lộ rằng vào ngày 15 tháng 4 Tòa
Ðại Sứ Mỹ đã gởi mật điện đến trường, yêu cầu cấp tốc lập danh sách
những ai muốn rời Sài Gòn.
Sau này khi định cư ở Mỹ, tôi được nghe một anh bạn là sinh viên Y
Khoa Sài Gòn năm cuối cùng, cũng tiết lộ Tòa Ðại Sứ Mỹ đã bốc đi gần hết
các sinh viên Y Khoa từ năm thứ năm trở lên qua Mỹ. Ðiều đó cho tôi
hiểu rằng ông bạn đồng minh của VNCH đã sẵn có kế sách bỏ rơi miền Nam
từ lâu, nên tìm cách bốc đi các nhân viên làm việc chung với họ, cùng
các chất xám trong nước.
Ngày Thứ Hai, 21 tháng 4 năm 1975: Sau khi đưa Mỹ Linh về nhà, tôi
hấp tấp lái xe nhanh về nhà để đón xem bài nói chuyện của Tổng Thống
Thiệu với quốc dân đồng bào. Toàn thân tôi đã nổi gai ốc khi nghe Tổng
Thống Thiệu tuyên bố từ chức và giao quyền lãnh đạo quốc gia cho Phó
Tổng Thống Trần Văn Hương. Tôi có linh cảm chiến tranh hai miền Nam Bắc
sắp kết thúc, với mây đen sắp sửa ập xuống dải đất miền Nam Cộng Hòa.
Ðêm đó ngồi trước quyển Hình luật vừa mới mua, tâm trí tôi nhảy múa lung
tung trước hiện tình đất nước, không thể nhét một chữ nào vào trong
đầu.
Ngày Thứ Ba, 22 tháng 4 năm 1975: Mấy ngày qua tôi không thấy thằng
bạn thân xuất hiện trong giảng đường, nên chiều nay sau khi tan học, tôi
tạt qua nhà hắn ở cư xá Chi Lăng, tỉnh Gia Ðịnh. Bấm chuông nhiều lần
vẫn không thấy ai ra mở cửa, khiến tôi nghi ngờ gia đình hắn đã chuồn ra
khỏi nước. Quả đúng như ý nghĩ, sau này hai đứa trùng phùng nhau trên
xứ người, hắn cho biết toàn thể gia đình được mục sư Cơ Ðốc Giáo âm thầm
dẫn đi di tản từ ngày đó.
Ngày Thứ Năm, 24 tháng 4 năm 1975: Bởi người anh rể tôi là một kiến
trúc sư, làm việc cho cơ quan Mỹ, nên khoảng 10 giờ sáng nay gia đình
anh chị tôi cùng với năm cháu được xe ở cơ quan đến tận nhà chở vào phi
trường Tân Sơn Nhất. Lòng tôi buồn rười rượi cho nỗi chia ly với anh chị
và các cháu, biết bao giờ gặp lại nhau! Vì vậy tôi càng thương cảm cho
hoàn cảnh của Mỹ Linh nhiều hơn, đã bặt tin tức song thân từ ngày Nha
Trang lọt vào tay Cộng quân. Khoảng 4 giờ chiều tôi đến trường Văn Khoa
đón Mỹ Linh. Hai đứa chui vào một quán kem quen thuộc nằm trên đường
Nguyễn Huệ. Sau khi một ly kem dâu, một ly kem chocolate và một dĩa bánh
su-kem được đặt lên bàn, tôi mới kể nàng nghe anh chị hai cùng năm đứa
cháu nhỏ của tôi đã vào phi trường Tân Sơn Nhất hồi sáng hôm nay. Nàng
nhìn thẳng vào mắt tôi và hỏi tôi sao không đi theo gia đình anh chị? Mỹ
Linh thực sự cảm động khi nghe tôi trả lời cho dù có cơ hội di tản, tôi
vẫn nhất quyết không đi, chỉ muốn được gần bên nàng mà thôi. Bằng tấm
lòng chân thật nàng bày tỏ cũng muốn ở lại đây với tôi và gặp lại mẹ
cha. Hai đứa không muốn lìa xa nhau dẫu cho tình thế có rối rắm tới đâu
đi nữa.
Ngày Thứ Sáu, 25 tháng 4 năm 1975: Vào khoảng 8 giờ sáng bọn sinh
viên năm thứ ba ban Kinh Tế ngồi trong giảng đường chờ thầy Vũ Văn Mẫu
đến dạy hai giờ Công Pháp Quốc Tế. Thầy Mẫu không xuất hiện, thay vào đó
là thầy Phó Khoa Trưởng Phan Tấn Chức đến cho biết thầy Mẫu bận công vụ
không đến dạy vào sáng nay. Vào dịp này trước tình thế hiện tại thầy
Chức cho biết ngày thi sẽ được tổ chức sớm hơn và nhấn mạnh ai có thi sẽ
được cho đỗ tất cả. Cả lớp học từ từ giải tán, riêng tôi chạy qua Văn
Khoa tìm Mỹ Linh. Hai đứa đến rạp Vĩnh Lợi xem phim “Tình Thù Rực Nắng”
(Summertime Killer) do nữ tài tử Olivia Hussey thủ diễn, rất sexy trong
phim này trái với hình ảnh xinh xắn và dễ thương trong vai nàng Juliet ở
phim Romeo & Juliet.
Ðứng trước rạp Vĩnh Lợi tôi không thể tưởng tượng được cảnh tranh
giành nhau, chen lấn nhau trước phòng bán vé. Không làm sao tôi quên
được quang cảnh bỉ ổi và kinh tởm trước rạp Vĩnh Lợi vào buổi sáng nay.
Trời ơi! Ðám đông la hét, chen lấn, chèn ép, xô đẩy nhau chỉ mong đạt
được mục đích nhỏ nhoi là mua được tấm vé xi nê. Rồi khi giành mua được
tấm vé, khuôn mặt họ đẫm ướt mồ hôi cùng nụ cười rạng rỡ trên môi, trông
trơ trẽn và nham nhở vô cùng. Vì những tấm vé hát, đám đông không hề lo
lắng và quan tâm đến tình hình chiến cuộc, mà Ban Mê Thuột, Huế, Ðà
Nẵng, Nha Trang đã từ từ lọt vào tay Cộng quân. Vì những tấm vé hát, đám
đông không mảy may sợ sệt và lo âu một Sài Gòn sẽ mất như thành phố Nam
Vang đã lọt vào tay Khmer Ðỏ? Vì những tấm vé hát, đám đông đã nhẫn tâm
phản bội và vô ơn đối với những anh chiến sĩ đang ngày đêm trực diện
với Cộng quân, để bảo vệ cho họ an lành ở thành thị vui chơi và hưởng
thụ. Tủi hổ, chán chường và tức giận, tôi và Mỹ Linh ra về. Buổi tối tôi
ngồi xem tin tức, được biết cựu Tổng Thống Thiệu và Thủ Tướng Trần
Thiện Khiêm đã rời Việt Nam. Quả thật tình hình đất nước biến chuyển đen
tối hơn và niềm âu lo nơi tôi thành phố Sài Gòn rồi sẽ thất thủ như
thành phố Nam Vang càng tăng hơn gấp bội.
Ngày Thứ Bảy, 26 tháng 4 năm 1975: Buổi sáng tôi đến trường Văn Khoa
lo việc ghi danh thi cử cho Mỹ Linh. Nàng đã cho tôi biết hôm nay hai
chị em nàng đi vào các trại tạm cư để dọ hỏi tin tức song thân, nên tôi
không cần tìm kiếm nàng trên Văn Khoa. Vào khoảng 2 giờ trưa người bạn
thân tên Bổng đến rủ tôi đi uống cà phê. Trong quán cà phê Hân, Bổng hỏi
tôi có ý định rời bỏ Sài Gòn không? Tôi đáp nhanh cho Bổng hiểu tôi
không có ý định đi đâu hết, bởi tôi không muốn xa Mỹ Linh. Nhà Bổng gần
bên Khánh Hội, nên hắn cho biết hắn sẽ tìm cách ra đi nếu nhìn thấy bóng
dáng Cộng quân xuất hiện trong thành phố. Nghe như thế, tôi cười và
khuyên Bổng dẹp bỏ ý nghĩ rời nước ra đi, bởi “cùng tắc biến, biến tắc
thông,” chiến tranh rồi sẽ kết thúc bằng một thỏa ước hòa bình. Nhưng
Bổng cãi lại, nói “biến tắc thông, thông rồi tắc tịch” luôn và khuyên
tôi nên tìm đường chạy thoát khỏi Sài Gòn, đừng vì con gái mà lụy thân.
Ngày Chủ Nhật, 27 tháng 4 năm 1975: Bởi tình hình chiến sự đang đến
hồi khốc liệt, Cộng quân đang tiến dần vào thủ đô Sài Gòn, chính phủ
phải ban hành lệnh giới nghiêm vào 7 giờ tối. Vì vậy khoảng gần ba giờ
chiều tôi chạy đến tìm gặp nàng. Xa nhau mới chỉ vỏn vẹn một ngày, cả
hai tưởng như xa nhau suốt một năm! Tôi gặp cô chị của Mỹ Linh cũng có
mặt trong nhà. Mỹ Linh nói ngày hôm qua hai chị em nàng đã đi khắp nơi
chứa người lánh nạn để tìm song thân. Tuy không gặp mặt nhưng được tin
ba mẹ nàng vô sự và bình an. Mỹ Linh nói thêm rằng song thân nàng nhắn
tin bảo hai chị em nàng nếu có cơ hội thì hãy ra đi trước. Nhìn tôi bằng
ánh mắt u buồn, Mỹ Linh nghẹn ngào nói hai chị em nàng đã quyết định
nghe lời song thân và dự định ra đi. Sau đó chị Mỹ Lan tiếp lời Mỹ Linh
cho tôi biết, bởi tình hình biến chuyển ngoài dự liệu, vào sáng mai sẽ
có vài vị cao cấp ở cơ quan DAO túc trực ngoài cửa phi trường để rước
các nhân viên của DAO vào bên trong phi trường. Nhưng cơ quan DAO chỉ
cho phép người phối ngẫu và cha mẹ con cái của nhân viên đi cùng mà
thôi. Nước mắt rưng rưng Mỹ Linh nghẹn ngào nói nếu tôi muốn thì sáng
ngày mai tôi và chị Mỹ Lan, giả như một cặp vợ chồng, đón xe vào phi
trường Tân sơn Nhất, còn nàng ở lại nhà chờ ông giáo sư Mỹ đến rước vào
tòa Ðại Sứ Mỹ. Sau đó hai đứa ra ngồi ngoài hành lang tâm sự và bàn tính
việc ra đi. Bàn tính chưa xong thì sắp đến giờ giới nghiêm. Tiễn tôi ra
tận cửa, hai đứa bịn rịn chẳng muốn lìa xa nhau. Ngoài đường mọi người
vội vã chạy về nhà trước giờ giới nghiêm, gây cảnh ồn ào náo động như
ngày lễ hội, nhưng bên tôi không nghe gì hết ngoài hơi thở của người yêu
mà thôi! Suýt nữa tôi quên trả lại nàng tấm thẻ sinh viên, nên vừa vội
vàng móc bóp lấy ra thẻ sinh viên trao nàng, vừa cho nàng biết sự ghi
danh thi cử giùm nàng đã xong. Mỹ Linh cười buồn nói rằng tấm thẻ sinh
viên này trong nay mai rồi sẽ trở nên vô dụng.
Ngày Thứ Hai, 28 tháng 4 năm 1975: Ðồng hồ trên tường chỉ đúng 9 giờ
sáng, chiếc xe taxi chở Mỹ Lan đậu trước nhà tôi. Từ giã những người
thân yêu, tôi bước vào trong xe và chiếc xe taxi đưa Mỹ Lan và tôi hướng
về phi trường Tân Sơn Nhất. Quang cảnh đường phố sáng nay mang bộ mặt
khác thường, bởi con đường nào cũng đông nghịt xe hết. Bóng dáng các
cảnh sát gìn giữ trật tự lưu thông lặn mất, khiến lưu thông xe cộ kẹt
cứng khắp nơi, một hiện tượng rất lạ thường đối với thành đô. Quả thật
sáng nay người dân Sài Gòn đang trực diện với không khí chiến tranh, nỗi
lo âu và sợ sệt đang bao trùm khắp thành phố. Xe cộ lưu thông loạn xạ,
vô trật tự, tiếng còi xe kêu vang inh ỏi, trộn lẫn với tiếng người kêu
la thất thanh, tạo ra bầu không khí hoang mang, sợ hãi tột cùng một sự
tắm máu sắp sửa xảy ra do tin đồn loan ra từ cả tuần qua. Chắc vì thế mà
mọi người túa ra đường tìm lối ra đi, nên đường phố càng lúc càng đông,
mạnh ai hối hả chạy không còn tuân theo luật lệ gì nữa!
Ông tài xế taxi nói tình hình chiến sự kể như vô vọng, Cộng quân tiến
gần Biên Hòa rồi. Tin tức Cộng quân đang tiến dần vào ngoại ô thành phố
Sài Gòn được lan truyền nhanh chóng, bắt đầu tạo ra bầu không khí hỗn
loạn khắp mọi nơi. Chiếc xe taxi nhích từng chút khiến Mỹ Lan ngồi trong
xe tỏ vẻ nóng ruột, lo lắng không gặp viên chức DAO, thì làm sao vào
bên trong phi trường được. Nhưng rồi đến gần 12 giờ trưa xe taxi mới tới
được phi trường, Mỹ Lan thở phào nhẹ nhõm trong khi lòng tôi bồn chồn
nhớ đến Mỹ Linh. Chung quanh phi trường được canh phòng bởi nhiều vòng
kẽm gai, cùng các Quân Cảnh và vài viên chức người Mỹ đứng canh gác. Lúc
ấy tôi mới để ý rất đông người tụ tập bên ngoài phi trường, với ước
mong vào bên trong phi trường thì mới có cơ hội đào thoát khỏi thành phố
Sài Gòn có nguy cơ bị nhuộm đỏ bởi Cộng quân. Trong thấy bóng dáng Mỹ
Lan, một viên chức ở cơ quan DAO đứng tuổi bước đến gần Mỹ Lan, phàn nàn
rằng tại sao Mỹ Lan tới đây quá trễ, nếu mà trễ thêm chút nữa hẳn không
gặp được ông ta, vì ông ta vừa được lệnh phải quay vào Tòa Ðại Sứ Mỹ.
Sau đó ông ta ra lệnh cho lính Quân Cảnh gỡ vòng kẽm gai để tôi và Mỹ
Lan bước vào trong phi trường, rồi đính thân ông ta lái xe chở hai đứa
đến một căn phòng to rộng, nơi đang có vài ngàn nhân viên Mỹ chờ đợi ra
đi. Bước vào trong căn phòng, tôi nhìn thấy mọi người đang nằm, ngồi la
liệt, bàn tán tình hình đen tối trước mắt. Vì vậy tôi mới biết trong phi
trường vừa có lệnh giới nghiêm 24/24, với lệnh “nội bất xuất, ngoại bất
nhập”, mọi cổng gác chung quanh phi trường đều đã đóng kín và được canh
phòng nghiêm ngặt bởi lính hỗn hợp Quân Cảnh Việt và Thủy Quân Lục
Chiến Mỹ.
Vừa ngồi xuống một khoảng trống trong căn phòng, toàn thân tôi như bị
đông lạnh và tức nghẹn khi được nghe rằng do bởi tình hình đột biến quá
nhanh, cơ quan DAO không thể kiểm tra danh sách nhân viên ghi tên ra
đi. Do đó bất cứ thân nhân nào đi cùng với nhân viên của DAO, cũng được
DAO vớt hết. Còn Mỹ Lan buông tiếng thở dài, than thầm phải mà biết được
như thế thì đã kéo Mỹ Linh đi theo luôn vào phi trường. Bỗng nhiên tôi
có linh cảm ông giáo sư Mỹ không thể đến bốc nàng đi như đã hứa hẹn và
Mỹ Linh sẽ bị kẹt lại. Trong lòng tôi nổi lên sự linh cảm mạnh mẽ hơn
khi trời đang nắng gay gắt, bỗng mây đen trên cao đột ngột kéo đến, báo
hiệu cơn mưa sắp sửa đổ xuống.
Ngước mắt nhìn trời cao, tôi chỉ thấy toàn đám mây đen, mù mịt che
phủ kín mặt trời. Phải chăng hiện tượng mây mù là dấu hiệu đen đúa sắp
phủ xuống cuộc đời Mỹ Linh? Mây mù ngự trị trên bầu trời khá lâu, đến
buổi chiều trời bắt đầu đổ mưa, tuy không nặng hột nhưng tạo ra hoàn
cảnh thê lương hơn, kinh sợ hơn và u ám hơn cho thành phố Sài Gòn. Lòng
tôi nóng như lửa đốt, muốn chạy ra gặp Mỹ Linh, nhưng phải đành ngồi bó
chân chờ đợi lệnh giới nghiêm được tháo gỡ. Như đọc được ý nghĩ tôi muốn
trở ra ngoài, bằng giọng trách móc Mỹ Lan nói rằng trong khi ai ai cũng
muốn chạy vào trong đây để được chính phủ Mỹ bốc ra khỏi nước, tránh
một cảnh tắm máu có thể xảy ra ngay trong lòng thành phố, thì tôi lại
muốn chạy ra ngoài đặng hứng bom rơi đạn nổ. Lời Mỹ Lan nói hoàn toàn
không sai! Khoảng 7 giờ tối để “chào mừng” bài diễn văn của Tổng Thống
Trần Văn Hương bàn giao chức vụ Tổng Thống cho Ðại Tướng Dương Văn Minh,
Cộng quân bắt đầu pháo kích vào trong phi trường. Lúc này tôi nghe
nhiều tiếng la thét, tiếng kêu réo, tiếng than khóc vang lên trong đêm
tối và mọi người bò lê bò lết nằm xuống tránh đạn, nhưng rất may đạn đã
không rơi vào nơi căn phòng tôi và Mỹ Lan đang trú ẩn. Hình như tôi
không thể ngủ được một phút giây nào, mắt mở trao tráo nghĩ đến tình thế
đen tối miền Nam rơi vào tay Cộng quân, cùng nhớ ray rứt về Mỹ Linh.
Ngày Thứ Ba, 29 tháng 4 năm 1975: Nơi phi trường Tân Sơn Nhất lệnh
“nội bất xuất, ngoại bất nhập” vẫn tiếp tục thi hành một cách triệt để
và gắt gao hơn nữa. Bằng cách nào tôi chạy thoát ra ngoài trước lính
canh phòng với khí giới trên tay và các vòng kẽm gai? Lòng tôi uất nghẹn
và điếng đau ghê gớm đã không thể trở ra phi trường tìm gặp người yêu
dấu. Ðến khoảng gần một giờ trưa mọi người chứng kiến quang cảnh đoàn
lính Thủy Quân Lục Chiến Mỹ giựt sập cột đèn, cắt đứt dây điện, lượm lặt
rác, thu dọn các chướng ngại vật dưới đất. Nhiều tiếng la hét và tiếng
khóc than nổi lên, bởi lúc ấy ai cũng đều nghĩ chắc chắn đã bị Mỹ bỏ
rơi, nên ùn ùn xách hành lý chạy ra khỏi các dãy nhà trú ẩn. Như bừng
sống dậy, tôi vội vã chào từ biệt Mỹ Lan, nhập vào đoàn người ùn ùn chạy
ra phi trường. Thấy tôi bỏ chạy, Mỹ Lan cũng chạy theo tôi. Chạy được
một khoảng ngắn, đoàn người bỗng nghe loa phát thanh vang lên: “Tất cả
hãy dừng lại và ngồi xuống đất có trật tự. Ai bất tuân sẽ bị trừng trị.
Trong chốc lát sẽ có hàng trăm chiếc trực thăng đáp xuống, bốc quí vị
rời khỏi đây.” Ðến giờ mọi người mới hiểu hành động của lính Thủy Quân
Lục Chiến Mỹ là chuẩn bị bãi đáp cho chiến dịch Trực Thăng Vận vào giờ
chót bốc người đi di tản của tổng thống Mỹ.
Khoảng hơn 3 giờ trưa từng đoàn trực thăng ào ào đáp xuống bãi đất
trống, nơi có vài ngàn người đã mỏi mệt chờ đợi mấy ngày qua. Trái với
nỗi lo âu nơi tôi có sự hỗn loạn và chen lấn đến chết người như đã xảy
ra ở phi trường Ðà Nẵng, mọi người trên tay xách một hành lý nhỏ, trật
tự xếp hàng một, từ từ bước vào từng chiếc trực thăng.
Buổi chiều hôm đó mây đen che kín bầu trời, từ một radio cầm tay
trong đoàn người, tôi nghe giọng nói của Giáo Sư Vũ Văn Mẫu, hiện là bộ
trưởng Bộ Ngoại Giao, kêu gọi người Mỹ hãy rút khỏi Việt Nam trong vòng
24 giờ. Ðể đáp ứng lời kêu gọi đó, Cộng quân pháo kích như mưa vào phi
trường Tân Sơn Nhất, nơi đang có vài ngàn người đang xếp hàng một, tuần
tự leo vào từng chiếc trực thăng rời khỏi thành phố Sài Gòn thân yêu.
Tiếng đạn pháo kích, tiếng cánh quạt của chiếc trực thăng hòa lẫn với
tiếng mưa rơi, tạo ra âm thanh thê lương đứt từng khúc ruột trong lòng
người bỏ nước ra đi. Ðôi chân nặng nề bước vào chiếc trực thăng, cõi
lòng tôi nát tan cho hoàn cảnh đẩy đưa phải đành xa Mỹ Linh từ đây. Từng
hạt mưa rơi đầy trên mặt trên môi tôi. Hay nước mắt đang đẫm ướt trên
mặt tôi đây?
Tôi nhớ như in, đúng 7.30 tối chiếc trực thăng, có tôi và Mỹ Lan
trong đó, từ từ cất cao lên mặt đất, rồi bay cao lên không trung và bay
khuất thành phố Sài Gòn dấu yêu. Lúc này tôi biết rõ nước mắt đang nhạt
nhòa trên đôi mi tôi. Khoảng chừng thời gian ngắn từng chiếc trực thăng
hạ cánh trên Hạm Ðội Thứ Bảy ở ngoài khơi Vũng Tàu.
Ngày Thứ Tư, 30 tháng 4 năm 1975: Vào 10 giờ sáng tôi cùng với số
đông đồng bào trên boong tàu của chiến hạm Okinawa, gục đầu buồn bã nghe
Ðại Tướng Dương Văn Minh đọc lệnh đầu hàng trên đài phát thanh. Mọi
người bàng hoàng và kinh ngạc sao Sài Gòn thất thủ nhanh quá! Không ai
nói được một lời nào! Một sự im lặng đến rợn người trên boong tàu, cúi
đầu rơi lệ đón nhận tin Cộng quân đã chiếm được thành phố dấu yêu Sài
Gòn. Sự im lặng đến không thể bày tỏ bằng lời nói của từng khuôn mặt
thất thần trên chiến hạm Okinawa, khác nào mọi người đang mặc niệm cho
thành phố Sài Gòn đang giẫy chết bởi Cộng quân.
Chiến hạm Okinawa tiếp tục lướt sóng ra đại dương mênh mông, mang chở
nỗi cảm xúc kinh hoàng trên từng khuôn mặt của mọi người vừa hay tin
thành phố Sài Gòn đã thất thủ. Cho tới hơn hai giờ trưa cùng ngày tất cả
người tỵ nạn từ trên chiến hạm được chuyển xuống từng chiếc xuồng nhỏ.
Rồi từ chiếc xuồng nhỏ, tôi và Mỹ Lan cùng đoàn người bỏ nước ra đi được
chuyển sang một chiếc tàu thương mại to lớn, đậu cách chiến hạm Okinawa
không xa mấy. Sau gần hai đêm ba ngày lênh đênh trên biển rộng bao la,
con tàu thương mại chứa đầy người tỵ nạn cập bến tại đảo Subic Bay, Phi
Luật Tân. Và sau vài đêm tá túc ở đảo Subic Bay, bằng những chuyến bay
dân sự những người tỵ nạn được chở đến đảo Guam hay đảo Wake trước khi
chính thức nhập cảnh vào đất Mỹ. Riêng tôi và Mỹ Lan được đưa đến đảo
Wake, một căn cứ quân sự của Mỹ ở Honolulu. Rồi sau đúng ba tuần lễ tá
túc trên đảo Wake, hai đứa được tạm trú trong trại tỵ nạn Camp Pendleton
ở tiểu bang California.
***
Uống vài hớp tách trà đã nguội lạnh từ lâu, ông Hòa ngả dài lưng
trên ghế sofa, lòng bồi hồi nhớ về các bạn đồng ngũ đã hy sinh trong
cuộc chiến bảo vệ miền Nam. Chính ông đã bị thương tích đầy mình và bị
giam cầm gần 8 năm ròng rã trong trại cải tạo, để suốt cuộc đời còn lại
phải sống với đôi chân tật nguyền. Lòng ông cũng ngậm ngùi giùm cho các
nhân vật trong tập nhật ký, bởi vì biến cố Tháng Tư 1975 đã tạo ra mối
tình oan trái “tình em duyên chị” đến dở khóc dở cười, ra ngoài ý muốn
cả ba.
Ông Hòa cũng ý thức được rằng biến cố Tháng Tư 1975 đã để lại
biết bao chuyện oan khiên khác, mà mỗi khi hồi tưởng lại thời gian đó,
lòng người bỏ nước ra đi gặm nhấm nỗi buồn đau khó thể quên được.
No comments:
Post a Comment