..Cuộc chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Những người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt… không còn được ai nhắc tới, biết tới, những người chết không yên, mồ mả bị đào xới lăng nhục.
Bốn
mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ
sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối
nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn
ném bùn vào bức chân dung thực của người lính VNCH?
Quân
đội VNCH chính thức buông súng và tan rã vào trưa ngày 30/4/75, sau
nhật lệnh đầu hàng của Chuẩn tướng Nguyễn Hữu Hạnh, một tên nằm vùng
được Tổng thống 3 ngày Dương Văn Minh bổ nhiệm làm quyền Tổng Tham Mưu
Trưởng. Đó là một ngày đen tối mà cho đến hôm nay, sau đúng 40 năm, hầu
như vẫn còn in rõ trong tâm niệm của hàng triệu người lính cũ của quân
đội miền Nam cùng với những cảm nghĩ cay đắng, đau xót. Những cảm nghĩ
ấy có lẽ cũng được cả những người chết mang theo.
Bốn
mươi năm sau khi tan hàng rã ngũ bằng một cuộc bức tử kinh tởm, chân
dung thật của người lính VNCH vẫn còn bị che mờ sau những màn khói huyền
thoại, phản bội và vô ơn. Có lẽ trong lịch sử thế giới, không có người
lính nước nào phải chịu một số phận nghiệt ngã như người lính VNCH.
Trong khi cầm súng chiến đấu và sau khi đã buông súng hằng chục năm,
người lính ấy vẫn chưa thoát khỏi cái số phận nghiệt ngã bám theo mình.
Tuyên
truyền CS vu cáo họ là “những tên lính đánh thuê”, là bọn “ngụy quân”
phản quốc, làm tay sai cho ngoại bang giết hại đồng bàọ. Báo chí phương
Tây, kiêu ngạo và bất công – qua một số cấp chỉ huy thối nát, bất xứng –
vẽ lên hình ảnh những người lính chỉ biết nhũng nhiễu dân, bỏ chạy
trước địch quân, và “không chịu chiến đấu”. Cuộc tan hàng thê thảm vào
ngày 30/4/75 càng khiến người lính VNCH bị lăng nhục hơn nữạ. Kẻ thù,
sau khi “lượm được chiến thắng”, đã tận dụng mọi phương tiện để trả thù,
đày ải, hạ nhục những người lính bại trận. “Bạn bè”, khiếp sợ trước
“chiến thắng thần thánh”của đối phương, cũng để tự bào chữa cho sự hèn
nhát và phản bội của mình, tiếp tục trút mọi tội lỗi lên đầu những người
lính đã bị bắt buộc phải buông súng.
Đau
đớn hơn nữa là sự phản bội của một số những người chỉ huy cao cấp trong
quân đội VNCH. Chưa hết, còn sự vô ơn và phản bội của một số người Việt
cầm bút, ở trong và ngoài nước, những người đã nhờ máu của người lính
VNCH mà được hưởng tự do trong hơn 20 năm để viết ra những gì họ nghĩ,
cái tự do trong giới hạn trong một xã hội chiến tranh nhưng ít nhất họ
cũng không bị trở thành những con ngựa trong chuồng như ở miền Bắc.
Những nhà văn nầy đã và đang trả cái ơn ấy bằng cách khai thác và phóng
đại những khuyết điểm của người lính VNCH, hay vô liêm sĩ hơn nữa, vu
cáo những người chiến sĩ chính danh là những tên lính đánh thuê khát
máu, không nhân tính, không lý tưởng. Đâu là chân dung thực của người
lính VNCH?
Năm
1984, trước bộ phim được gọi là “tài liệu lịch sử” dài 13 giờ chiếu
mang tên “Vietnam: A Television History” (Việt Nam: Một Bộ sử Truyền
Hình) nhưng là một sự lăng mạ lịch sử, ông James Banerian đã viết một
cuốn sách vạch trần những sai lầm ác ý của những người làm phim. Cuốn
sách của ông nhan đề là “Losers Are Pirates” (Thua là giặc), rút từ câu
tục ngữ Việt Nam “được làm vua, thua làm giặc”. Cái tựa đề ấy đã xác
nhận thêm số phận bạc bẽo cay nghiệt của người lính thua trận, và là một
trong số hiếm hoi những tiếng nói lương thiện và trung thực trong “thế
giới tự do” đã đóng góp vào việc tái tạo lại chân dung thực của người
lính VNCH.
Cũng
trong năm 1984, học giả Phạm Kim Vinh viết cuốn “Thiên Anh Hùng Ca Viết
Cho Quân Lực VNCH”, dùng những chất liệu lịch sử và những bài viết của
các tác giả Tây phương lương thiện để bẻ gãy những sự vu cáo, bác bỏ
những lời buộc tội bất công, xoá tan những huyền thoại, và phục hồi danh
dự cho những người lính đã chiến đấu trong những điều kiện khắc nghiệt
suốt hơn 20 năm, đi qua một con đường dài lịch sử mà ông cho là “kể về
sự khắc khổ và chịu đựng còn vượt xa con đường Vạn Lý Trường Chinh của
Mao Trạch Đông, và về tính cách thiêng liêng, vị tha và cao quý còn vượt
xa các cuộc Thánh Chiến Thời Trung Cổ.
Chân
dung người lính VNCH được phác họa sống thực ngay ở bìa cuốn sách, với
hình ảnh một người chiến binh gầy ốm, gương mặt chĩu nặng ưu tư mệt mỏi,
nhưng chân vẫn bước đi với hai ống quần xắn lên tới đầu gối và cây súng
thô sơ trên vai. Qua gần 300 trang sách với thật nhiều dẫn chứng cụ thể
và những biện luận vững chắc, tác giả Phạm Kim Vinh đã đưa người đọc đi
lại con đường dài mà người lính VNCH đã đi, từ những ngày đầu được khai
sinh với nhiều bất hạnh, trưởng thành dần trong khói lửa với cuộc chiến
đấu dũng cảm trong sự thiệt thòi bất công vô lường, cho đến cái chết
tức tưởi oan nghiệt vào ngày 30/4/75.
Người lính VNCH: biểu tượng cho sự chịu đựng gan dạ
và bền bỉ trong cuộc chiến chống cộng ròng rã suốt 3 thập niên.
Ngay
sau khi người lính VNCH buông súng, trong đống sách báo phim ảnh trên
thế giới nói về cuộc chiến VN cũng đã có rải rác những cái nhìn công
bằng hơn về những người lính thua trận, qua những cuộc chiến đấu cuối
cùng dũng cảm tuyệt vọng của họ.
Hai
ngày sau khi Saigon sụp đổ, Peter Kahn, nhà báo Mỹ đoạt giải Pulitzer,
đã viết một bài bình luận dài trên tờ Wall Street Journal (2/5/75) tựa
đề “Truy điệu Nam Việt Nam”, trong đó có đoạn viết về Quân Lực VNCH như
sau:
“..
.Nam Việt Nam đã chống cự hữu hiệu trong 25 năm, và họ đã không phải
luôn luôn được người Mỹ giúp. Tôi nghĩ ít có xã hội nào bền bỉ chịu đựng
được một cuộc chiến đấu lâu dài như vậỵ. Quân lực VNCH đã chiến đấu can
đảm và vững mạnh trong một số trận đánh mà chúng ta còn nhớ, thí dụ như
trận An Lộc, Quân đội ấy đã chiến đấu giỏi và can đảm ở nhiều trận đánh
khác mà chúng ta không còn nhớ địa danh. Quân lực ấy đã can đảm và
chiến đấu trong hàng ngàn trận đánh nhỏ, và giữ vững hàng ngàn tiền đồn
hẻo lánh ở những nơi mà cái tên nghe rất xa lạ với người Mỹ…
Hàng
trăm ngàn người của quân lực ấy đã tử trận. Hơn nửa triệu người của
quân lực ấy đã bị thương… Và trong những tuần lễ chót, khi mà người Mỹ
nào cũng biết là cuộc chiến đấu đã thua rồi thì vẫn còn những đơn vị của
quân lực ấy tiếp tục chiến đấu, thí dụ tại Xuân Lộc. Nhờ có những sự
chiến đấu ấy mà người Mỹ và một số người Việt lựa chọn mới an toàn thoát
đi được. Rốt cuộc, quân lực ấy đã tài giỏi hơn sự ước lượng của người
ta. Phía mạnh hơn chưa chắc đã là phía tốt hơn.”
Không
phải đợi tới ngày nay, 40 năm sau, người ta mới khẳng định được rằng,
“phía mạnh hơn không phải là phía tốt”. Phía tốt hơn đã trở thành phía
yếu hơn và đã bị đánh bại trên chiến trường chỉ vì đã trở thành nạn nhân
của sự hèn nhát và phản bội. Người lính VN đã chiến đấu cho tự do đã bị
trói tay buộc chân, cắt giảm viện trợ vào lúc hiểm nghèo nhất.
Trong
cuốn “Not with guns alone”, nhà báo lão thành người Úc Denis Warner đã
lên án Quốc Hội Mỹ cắt giảm viện trợ quân sự cho VNCH vào lúc cần phải
gia tăng. Ông cho biết cả một tiểu đoàn QLVNCH bị tiêu diệt trong một
trận đánh ở miền Tây sau khi bắn hết viên đạn cuối cùng.
Ở
miền Trung, mỗi khẩu đại bác chỉ còn được cấp 4 viên đạn mỗi ngày,
trong khi Cộng quân có khả năng nã vào các căn cứ quân sự miền Nam hàng
ngàn quả đại pháo mỗi đêm.
Tác giả Mỹ Louis A. Fanning cũng viết như sau trong cuốn “Sự phản bội tại VN” (Betrayal in Vietnam):
“Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiều. Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.
“Trong khi quân lính Bắc Việt được tăng cường chiến cụ thì quân đội Nam Việt Nam lại bị cắt giảm thật nhiều. Trước kia, mỗi khinh binh đi hành quân tuần tiễu được phát mười trái lựu đạn, nay chỉ còn được phát có một trái”.
Những
kẻ trói tay buộc chân người lính VNCH cũng chính là những kẻ đã kết tội
người lính ấy “không chịu chiến đấu” trong khi cả “thế giới tự do”
không hề có một lời lên án việc CSBV xé bỏ Hiệp Định Paris 1973, chiếm
đoạt miền Nam bằng võ lực. Sự hèn nhát nầy đã bị nhà văn Nga lưu vong
Solzhenitsyn coi là một sự vô đạo, vì ý chí tự vệ của phân nửa Âu Châu
và ở 3/4 thế giới còn thua xa ý chí chiến đấu tự vệ của Nam Việt Nam,
phần đất đã bị bỏ rơi với lời biện hộ “không thể bảo vệ những người
không có ý chí để tự bảo vệ!”
Sự
hèn nhát và vô đạo ấy đã làm thức tỉnh lương tâm một số người từng góp
phần cổ võ cho CSBV xâm chiếm miền Nam, khi họ chứng kiến những trận
đánh cuối cùng của một số đơn vị QLVNCH. Trong số nầy có 3 nhà báo Pháp
Jean Larteguy, Jean Lacouture và Pierre Darcourt. Ba nhà báo nầy đã có
mặt tại miền Nam Việt Nam trong cơn hấp hối của Saigon, có lẽ chờ đợi
đón mừng “bộ đội giải phóng” để chứng kiến cái chết ô nhục của quân đội
miền Nam mà họ đã phỉ báng trong suốt bao nhiêu năm. Nhưng sau khi chiến
tranh chấm dứt, họ trở về Pháp, và đã làm cho cả thế giới ngạc nhiên
với những gì họ viết ra.
Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:
Jean Larteguy ghi lại như sau khi tới thăm một đơn vị Dù cố thủ tại Sài Gòn:
“Thứ Hai 28/4/75
Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.
Ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Saigon sáng nay yên tĩnh.
Các đơn vị của một lữ đoàn Dù chiếm đóng vị trí của họ trong thành phố, sau bức tường, trong các khu vườn. Họ không buồn rầu, và không tuyệt vọng. Họ điều động như thể đang dự một cuộc thao dượt. Đôi lúc họ còn cười với nhau, và liệng cho nhau những chai Coca-Cola. Họ không nuôi một ảo tưởng về số phận của họ, về kết quả của trận đánh tối hậu nầy. Nhưng tôi có cảm tưởng là họ nhất định chiến đấu tới cùng, và sẽ tự chôn mình trong những đổ nát của Saigon.
Và những binh sĩ tuyệt vời nầy vẫn còn có được các cấp chỉ huy ở bên họ. Một trong các cấp ấy là một đại tá. Tôi hỏi ông ta xem tình hình ra sao.
Ông trả lời:
- Chúng tôi sẽ chiến đấu, và chúng tôi sẽ là những người chót chiến đấu. Hãy nói cho mọi người biết rằng chúng tôi chết không phải vì Thiệu, vì Hương hay vì Minh.”
Sau
khi Dương văn Minh đã tuyên bố đầu hàng, Lartéguy lại được chứng kiến
tận mắt trận đánh cuối cùng của các đơn vị QĐVNCH tại Saigon, và ghi lại
như sau:
“Gần
Lăng Cha Cả, quân Dù đánh trận chót. Họ chiến đấu tới 11 giờ 30 trưa,
cho tới khi các cấp chỉ huy của họ từ Dinh Tổng Thống trở về sau cuộc
gặp gỡ bi thảm với tướng Minh. Các sĩ quan nầy khuyên họ nên ngưng chiến
đấu. Họ vừa hạ được 5 xe tăng T-54. Những xe ấy còn đang cháy ngùn
ngụt. Một chiếc nổ tung vì đạn trong xe.
Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.”
Quân Dù không để lại trên trận địa một thứ gì, dầu là vũ khí, đồ trang bị, người bị thương hoặc người chết.”
Lartéguy cũng được thấy tận mắt các sinh viên Trường Võ Bị Đà Lạt, lực lượng trừ bị chót của QLVNCH, tiến ra trận địa.
“Và
trong những bộ đồng phục mới, giày chùi xi bóng láng, các sinh viên anh
dũng của Trường Võ Bị Đà Lạt đã đi vào chỗ chết. Chỉ còn thiếu có cái
mũ diễn hành và đôi bao tay trắng”.
Một
đồng nghiệp của Lartéguy là Raoul Coutard đã thu được cảnh xuất quân bi
tráng ngay vào máy quay phim và cố nén xúc động để hỏi các sinh viên sĩ
quan:
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
- Các anh có biết là sắp bị giết chết không?
Một thiếu úy trả lời:
- Chúng tôi biết chứ.
- Vì sao?
- Tại vì chúng tôi không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản.
”
…Các xe tăng đầu tiên của cộng sản vào Saigon từ phía Đông, qua tỉnh lộ
Thủ Đức và Biên Hòa… Bộ binh thì tiến từ phía Bến Cát và Tây Ninh. Tuy
vậy, bọn nầy chỉ tới được trung tâm Saigon vào lúc 5 giờ chiều. Từ ngày
hôm trước, các đơn vị cộng quân nầy dã bị chặn tại gần Hốc Môn, gần nơi
có Trung Tâm Huấn Luyện Nhảy Dù do Lữ Đoàn 4 của sư đoàn Dù trấn giữ,
dưới sự chỉ huy của đại tá Vinh, sĩ quan to con, mặt phong trần, nhất
định bất chấp lệnh ngưng bắn. Các đơn vị cộng quân bị thiệt hại nhiều.
Sau đó, chúng còn phải giao tranh 2 lần trên đường phố Saigon: một lần
trước trụ sở Cảnh Sát Công Lộ; nơi đây chừng 100 cảnh sát viên chiến đấu
oanh liệt trong hơn một giờ, trước khi bị xe tăng cộng sản đè bẹp; lần
thứ hai ở ngã tư Hồng Thập Tự và Lê Văn Duyệt, là nơi chỉ có bốn người
lính dù võ trang đại liên và bazooka mà chiến đấu được trong 50 phút.
Đến khi hết đạn, họ đi ra ngoài, nắm vai nhau, lập thành vòng tròn rồi
tự sát.
Đến
chiều tối. 400 chiến sĩ Mũ Đỏ (Dù) được gom từ trận Hốc Môn và từ phi
trường, tụ lại quanh đại tá Vinh, và còn chiến đấu gần chợ chính và các
nơi có ruộng lúa của tỉnh Chợ Lớn. Đến 10 giờ đêm, đại tá Vinh cho lệnh
các binh sĩ chia thành toán nhỏ, lợi dụng bóng đêm để rút về đồng bằng.”
Darcourt cho biết đại tá Vinh đã ở lại vị trí và tự sát.
Hai cái chết hào hùng khí phách của 2 vị tướng ưu tú của QLVNCH cũng được các nhà báo quốc tế chân chính thuật lại.
Nhà báo lão thành người Úc Denis Warner viết về cái chết của tướng Lê Nguyên Vỹ, tư lịnh sư đoàn 5, như sau:
“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liên lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.
“…Trong buổi sáng ngày 30/4/75, sư đoàn 5 mất liên lạc với quân khu III tại Long Bình. Tư lệnh sư đoàn 5 là tướng Lê Nguyên Vỹ quyết định dùng mọi thứ xe cơ giới để tiến về Saigon. Toàn thể quân đoàn I của CS chận đánh đoàn xe của tướng Vỹ. Bị yếu thế về mọi mặt, đoàn xe ấy bị tiêu diệt. Tướng Vỹ hiên ngang tự sát”.
Về cái chết của tướng Nguyễn Khoa Nam, tư lệnh quân đoàn 4, ký giả Mỳ Alan Daeson thuật lại:
“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe Tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, Tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót… Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.
“…Tại Cần Thơ, tướng 3 sao Nguyễn Khoa Nam, Tư lệnh Vùng 4 và đồng bằng Cửu Long, rốt cuộc đành chịu nhận là cuộc chiến đã hết, khi ông ta nghe Tướng Minh nói trên đài phát thanh. Là một trong các tướng lãnh cương quyết ở lại, Tướng Nam đã chiến đấu cho đến phút chót… Ông ra lệnh cho các sĩ quan tham mưu của ông không được rời bản doanh.
Tướng
Nam chẳng có gì để phải hổ thẹn khi chiến đấu những ngày chót của một
chiến binh. Ông đã thật sự dâng cuộc đời mình cho cuộc chiến đấu ấy.
Trong vòng 30 phút, sau khi tướng Minh ra lệnh đầu hàng trên đài phát
thanh, tướng Nam kề khẩu súng lục cỡ 45 vào mồm rồi bóp cò. Ông ta chết
ngay tại chỗ.”
Những
trận đánh dũng cảm và những cái chết anh hùng trên đây là đoạn kết của
một cuộc chiến bi tráng kéo dài trên 20 năm, trong đó theo viên tướng
Pháp Vanuxem thì cứ mỗi 8 phút lại có một người lính VNCH hy sinh. Nhờ
sự hy sinh ấy mà hơn 20 triệu người dân miền Nam được sống tự do trong
1/4 thế kỷ.
Bao
nhiêu cuộc đời êm ấm đã trôi qua trong thời gian ấy, bao nhiêu công
danh sự nghiệp đã được “những con người may mắn” thủ đắc.
Và
đây là cái “phần thưởng” mà xã hội miền Nam ngày trước đã đền đáp cho
sự hy sinh của người lính sau mỗi cuộc hành quân, qua ngòi bút của Phan
Nhật Nam:
“Người
chồng không chết, và sẽ trở về. Người lính bơ phờ, gầy guộc, ngồi đếm
đi đếm lại những tờ giấy bạc bằng những ngón tay cáu ghét, mơ ước bỗng
nhiên xấp bạc trở thành nhiều hơn, một giấc mơ nhẹ nhàng, quên được cảnh
đời với đôi chân lội ngập trong bùn, những tờ bạc có được sau 30 ngày
đo chân bờ ruộng, trong rừng sâu, trên những cồn cát, 30 đêm ngủ võng,
nằm hầm, mắt mở lớn sau một lớp cỏ ướt sương, và toàn thân ngâm chặt
dưới nước bùn lạnh giá. Những tờ bạc chỉ đủ mua một phần gạo cho một
người đàn bà và 4 đứa con trong tháng”.
Đó là người lính không chết. Nếu người lính chết, thì đây là thân phận vợ con người lính:
“Người
lính chết, chết là hết, nhưng không bao giờ hết cho người vợ lính.
Không chết cho một chuỗi ngày tháng dài đăng đẵng sau lưng, cùng với một
lũ con nheo nhóc; những đứa bé sẽ lang thang trên các đống rác chất
ngất được đổ từ những chiếc xe nhà binh Mỹ; thằng bé sẽ mặc cái áo dài
của bố nó, dài đến tận đầu gối, tóc rối, mắt khô, chân tay là những rễ
cây khẳng khiu.. Những người vợ lính, và đứa con lính sẽ dự phần vào
cuộc đua khốn nạn, dấu chân trần sẽ vượt thật nhanh trên những chiếc hộp
sắt bóng loáng, hay sét rỉ…”
Cuộc
chơi rõ rệt không công bằng, nhưng nguời lính VNCH vẫn miệt mài chiến
đấu và hy sinh. Cho đến khi hoàn toàn bị trói tay. Cuộc chơi tàn. Những
người lành lặn bị lùa vào các trại cải tạọ. Đui, què, mẻ sứt… không còn
được ai nhắc tới, biết tới, những người chết không yên, mồ mả bị đào xới
lăng nhục.
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào bức chân dung thực của người lính VNCH?
Bốn mươi cái 30/4 đã trôi qua, hào quang của những kẻ đã chiến thắng nhờ sức mạnh súng đạn ngoại bang đã tắt lịm trong cái xã hội cực kỳ thối nát. Bao giờ lương tâm mới thức tỉnh trong những con người vẫn còn muốn ném bùn vào bức chân dung thực của người lính VNCH?
Sơn Tùng
No comments:
Post a Comment