Phạm Hòa, Phan Nhật Nam, Ngọc Minh, Hồ Tịnh, Phạm Đình Cung Nguyễn Rinh
Ngày tôi còn cắp sách đi học thì Phan Nhật Nam đã là một nhà
văn quân đội lừng danh. Văn của ông đơn
giản, thắm thiết, nhưng đặc biệt nhất, ông đã đem được máu, lửa, đau thương cam
khổ của dân tộc, của những người lính QLVNCH vào trong văn của ông. Hồi đó chúng tôi đã chuyền tay nhau những cuốn
như "Dọc Đường Số Một", "Dựa Lưng Nổi Chết" vân vân...
Cùng với PNN, chúng tôi cũng đọc “Đời Pháo Thủ” của Nguyên Vũ
và vài nhà văn quân đội khác như Dương Hùng Cường của Không Quân vân vân, nhưng
thành thật mà nói, không có ai viết cho mình đọc thống khoái bằng PNN...
Năm 75, PNN bị kẹt lại và bị đày đoạ trong tù Việt
Cộng. 13 năm tù khổ sai dành cho một
người lính không có tội gì ngoài tội yêu thương đất nước, yêu thương gia đình,
yêu thương anh em...
Sau chừng ấy đau thương tủi nhục, một điều lạ là, văn của
ông bây giờ cũng chẳng khác hồi xưa. Bài
nào cũng, như đã nói, đã đem được máu lửa, đau thương tủi nhục của cả dân tộc
vào từng câu, từng chữ...
Kính mời quí vị đọc bài mới nhất của PNN nhân mùa Quốc Hận
2015....
Trường Sơn Lê Xuân Nhị
Trong Lửa Đỏ,
Giữa Sự Chết,Trên Quê Hương!
Phan Nhật Nam
Một
Cách đây 50 năm, tại Nghĩa Trang Quân Đội Gò Vấp, Gia Định
những buổi chiều mưa dầm Tháng 6 miền Nam, anh xoay xở quay quắt giữa những
thây chết của những người lính thuộc đơn vị đầu đời, Tiểu Đoàn 7 Nhẩy Dù, Tiểu
Đoàn 52 Biệt Động, Tiểu Đoàn 2/7 Sư Đoàn 5 Bộ Binh.. Những người chết của chiến
trận Đồng Xoài, Bình Dương nổ ra từ những ngày đầu Tháng 6. Đối với một gã lính
vừa qua tuổi 20 năm ấy, sự mất mát của hàng trăm chiến hữu chỉ được đưa về sau
nhiều ngày kể từ khi tử trận quả là một sự đau thương quá lớn.. Thân thể người
chết căng cứng, xanh đen, tím thẩm, dòi bọ lúc nhúc bò theo những vết thương
sũng máu. Khoảng đất nghĩa trang đặc sánh bởi máu, thịt, con người chảy vữa,
sênh sếch.. Trong đó có máu, thịt của
bạn anh, Thiếu Úy Trần Trí Dũng, gã học sinh đã cho bạn cùng lớp và toàn Trường
Phan Châu Trinh Đà Nẵng niềm hãnh diện.. Vô địch bóng bàn học sinh, thủ quân
đội bóng rỗ, cũng là trung phong hàng đầu của hội tuyển bóng tròn trường trung
học đá hay nhất miền Trung. Nhưng giờ đây, tất cả dạng hình tươi trẻ sống động
của Dũng với lúm đồng tiền trên má không còn nữa.. Kéo fermeture bao đựng xác –
Bạn anh, người bạn ấu thơ của Đà Nẵng hơn mươi năm trước bấy giờ chỉ là một
thây xác sùi sụp nước nhờn tím thẩm hôi hám. Có chăng được phần an ùi. xác Dũng
còn nguyên dạng hình chưa bị vữa nát. Buổi đá banh năm xưa ở Sân Vận Động Chi
Lăng làm sao tưởng ra tình cảnh nầy Dũng ơi?!
Xóm nhà dân trước nghĩa trang phải di tản vì mùi hôi thối
bốc kín đặc khoảng không. Tiếng kêu khóc của thân nhân tử sĩ âm âm oán thán,
xót xa, xé cắt.. Có bà cụ vật vã thều thào bên chiếc poncho gói xác người vừa
lật mặt.. Nam ơi! Nam ơi! Sao cháu bỏ
bà.. Anh ngồi xuống bên cạnh bà cụ.. Bà
ơi, con cũng tên Nam, cha mẹ con không còn, con gọi bà bằng bà thay anh Nam. Trở
về hậu cứ đơn vị nơi phi trường Biên Hòa, sân cờ tiểu đoàn trắng màu khăn tang,
con trẻ chạy thất thanh quanh những người mẹ đang nằm lăn trước bậc thang các
văn phòng đại đội.. Thiếu úy ơi! Thiếu úy ơi! Hóa ra anh là sĩ quan còn sót lại
của một tiểu đoàn nhảy dù mà từ tiểu đoàn trưởng, tiểu đoàn phó, 4 đại đội
trưởng đồng tử nạn.. Không biết Đại Úy Phát, đại đội trưởng Đại Đội 74 và đám
quân binh thất lạc nay đang ở đâu. Thế nên, những tưởng Tháng 6 năm 1965 đã quá
sức chịu đựng của con người - Cho dẫu là người lính có khẩu hiệu Nhẩy Dù Cố
Gắng!
Hai
Từ trên trực thăng ở Quảng Trị đổ về Huế trong ngày Mồng Bốn
Tết Âm Lịch anh đã thấy ra một Thành Phố Huế chết lặng. Người Huế chết khi ẩn
núp sau những gốc cây bị pháo, hỏa tiễn cộng sản bắn lật ngược, cạnh hàng hàng
rào chè cháy xém; trên lề đường với mỗi viên gạch đồng bị vỡ vụn, nơi sân nhà trước chiếc bàn thờ xiêu đổ..
Người chết đang qùy lạy ông bà, với áo mới thấm máu, xé rách, con trẻ còn cầm
trong tay bao đỏ tiền lì xì đầu năm.. Tuy nhiên cảnh chết của Huế không chỉ xẩy
ra trong khu Thành Nội, trên đường Mai Thúc Loan, Đinh Bộ Lĩnh, khu sân bay Tây
Lộc, ở những cửa thành Thượng Tứ, Đông Ba.. Chết ở Huế trùm khắp, mọi chốn, tại
mỗi phân đất tại vùng Bãi Dâu, bên cạnh Sông Hương, nơi sân Trường Gia Hội,
Chùa Áo Vàng.. Và sau ngày quân cộng hòa chiếm lại Kỳ Đài, đám cán binh cộng
sản gồm du kích, nội thành, và bộ đội miền Bắc bị đánh bật ra khỏi khu cố thủ
Gia Hội, trên đường rút lui mang theo những tù nhân vốn chỉ là con trẻ vị thành
niên, người già, phụ nữ.. Nhưng đối tượng làm con tin cho lần tháo chạy. thế
nên cuối cùng, thì cảnh chết, sự chết đã hiện thực, vượt khỏi sự tưởng tượng
của bất cứ ai còn có Nhân Tính – Bởi người Huế đã tiếp bị thảm sát do những kẻ
cùng chung khu phố, chung xóm nhà cư ngụ. Không sót một người. Không trật một
người. Người Huế bị giết do một Sự Ác được ngụy danh là “giải phóng”, để thỏa
mãn mặc cảm vô dụng, hèn kém của những kẻ gọi là “trí thức cách mạng”, điễn
hình đặc chất Huế như Hoàng Phủ Ngọc Tường, Hoàng Phủ Ngọc Pham, Nguyễn Đắc
Xuân, Nguyễn thị Đoan Trinh, Tôn Thất Dương Kỵ.. Người Huế chết chật hết những
bụi lùm ở Khe Đá Mài vùng núi Ngũ Tây; sùm sụp bước chân của đoàn người tìm
kiếm trong những ngày hè cùng năm năm 1968. Hơi thây chết bốc lên theo nắng đầu
hè miền Trung ong óng như hờn oan. Nhưng hởi ôi! Chết ở Huế cũng chưa đủ cho
cuộc đau thương của người Việt. Người Việt miền Trung chiếm đầu bảng đầu oán
hận. Không phải đợi dài lâu.
Ba
Anh đang ở trên cây
số 9 từ Quảng Trị kể đến, vùng thôn Mai Đẳng, xã Hải Lăng..Không thể dùng một
chữ, một tĩnh từ, không thể nói, khóc, la, trước cảnh tượng trước mặt, chỉ có
thể im lặng, chỉ có thể nghiến răng, bặm môi, dù răng vỡ, môi chảy máu tươi,
tay luống cuống, mắt mờ nhạt, mũi phập phồng.Không có thể biết gì về thân thể
đang mở ra trước sự tàn khốc trước mặt.Trời ơi ! Hình như có tiếng kêu mơ hồ
dội ngược ở trong lồng ngực, trong cổ họng, nơi óc não, hay chỉ là ảo giác của
con người mất hết khả năng kiểm soát.Kiểm soát làm sao được nhịp đập của quả
tim, không ai ngăn cản cơn chớp liên hồi của đôi mắt, tay nổi da gà, những sợi
gân ở thái dương phồng lên đập xuống – Máu chảy ngúc ngắc trăn trở lăn lóc khô
khan khó nhọc trong những gân căng đến độ chót ... Cũng không phải như thế -
Anh không biết, hoàn toàn không biết được gì của xác thân. Anh không còn là
người đang sống, vì sống là sống cùng với người sống, chia xẻ vui buồn, đau đớn
lo âu với người sống. Chung quanh anh trước mặt chỉ còn một hiện tượng, một
không khí - Chết. Phải, chỉ có Sự Chết bao trùm vây cứng. Chỉ có nỗi chết đang
tầng tầng phủ chặt kín không gian. Cho dù rằng,
Tháng 4, 5, 1972 ở An Lộc với những ngôi mộ vô danh, mộ tập thể, những
cái chết câm lặng đến độ chót của đau đớn kinh hoàng, người cha trầm tĩnh đi
tìm từng cái chân, cánh tay của năm đứa con vừa bị tan thây vì quả đạn đại
pháo, nhưng lại còn được một nấc chót - Bên cạnh người chết vẫn còn người đang
sống - Ở An Lộc, anh thấy được loại người cuối đáy đau thương đó. An Lộc lại
quá nhỏ, chỉ hơn một cây số vuông, cái chết cô đặc lại, ngập cứng vào người
nhanh và gọn như nhát dao ngọt.Cái đau đến chớp mắt, người chưa kịp chuẩn bị
thì đã ngập hẳn vào trong!
Nhưng ở đây, thôn Giáp Hậu, Mai Đẳng, Hải Lâm của Quảng Trị
thì khác hơn An Lộc một bậc, hơn trên một tầng, tầng cao ngất chót vót, dài hơn
An Lộc một chặng, dài hun hút mênh mông.sự chết trên 9 cây số đường này là 9
cây số trời chết, đất chết, chết trên mỗi hạt cát, chết trên đầu ngọn lá, chết
vương vãi từng mảnh thịt, chết từng cụm xương sống, đốt xương sườn, chết lăn lóc
đầu lâu, chết rã rời từng bàn tay cong cong đen đúa ... Anh đi theo chiếc xe
công binh ủi một đường dài, những xác chết, không, phải nói những bó xương bị
dồn cùng áo quần, vật dụng, chạm vào nhau nghe lóc cóc, xào xạc, “đống rác”
người ùn ùn chuyển dịch, một chất nhờn đen đen ươn ướt lấp lánh trên mặt nhựa -
nhựa thịt người !!Trời nắng, đồng trắng, con đường im lìm, động cơ chiếc xe ủi
đất - phải gọi xe ủi người mới đúng - vang đều đều, hơi nắng bốc lên từng đường
trên mặt nhựa, hơi nặng mùi ... Vạn vật chết trong lòng ánh sáng. Ánh sáng có
mùi của Sự Chết. Nếu cảnh chết tập thể của người Do Thái ở các trại tập trung
gây nên niềm bàng hoàng xúc động, vì thế giới chứng kiến, thấy ra được những
“xác người,” chồng chồng lớp lớp. Chín cây số đường chết của Quảng Trị không
còn được quyền dùng danh từ “xác chết” nữa, vì đây chết tan nát, chết tung tóe,
chết vỡ bùng ... Chết trân tất cả mọi cái chết.Không còn được “người chết” trên
đoạn đường kinh khiếp đến tột độ của chốn quê hương thê thảm đọa đày.
Anh ra khỏi 9 cây số đường kinh hoàng đến La Vang Thượng,
xuống đi bộ vào La Vang chính tòa, nơi Tiểu Đoàn 11 Dù đang chiếm giữ. Hai cây
số đường đất giữa ruộng lúa xanh cỏ, anh đi như người sống sót độc nhất sau
trận bão lửa đã thiêu hủy hết loài người.Đường vắng, trời ủ giông, đất dưới
chân mềm mềm theo mỗi bước đi, gió mát và không khí thênh thang. Anh ngồi xuống
vệ đường bỏ tay xuống ao nước kỳ cọ từng ngón một. Anh muốn tẩy một phần sự chết bao quanh ? Có cảm
giác lạ : Anh vừa phạm tội. Tội được sống.
Bốn
Nhưng cuối cùng..Hóa
ra, Khổ Đau/Sự Chết nơi chiến trận
Đồng Xoài 1965 chỉ là khúc dạo đầu phần bi thảm với những người lính tử trận.
Cuộc tàn sát Mậu Thân, 1968 cũng trong giới hạn của ngàn người dân Thành Phố
Huế bị đập đầu, chôn sống. Và cho dẫu ngọn lửa Mùa Hè 1972 gớm ghê khốc liệt
bao nhiêu cũng chỉ bùng cháy, tiêu hủy các thị xã An Lộc, Kontum, Quảng Trị..
Hóa ra Địa Ngục Miền Nam không chỉ chứng ấy. Hóa ra khổ đau Miền Nam không chỉ
với vài ngàn, vài chục ngàn người chết, những thị xã bị tiêu hủy.. Tai ương
Việt Nam/Thảm Họa Miền Nam thăm thẳm vô bờ
với mùa xuân uất hận không thể nào quên. dẫu hôm nay 40 năm sau 1975.
Chúng ta hãy nhìn lại đoạn đường máu thẩm của một Dân tộc đọa đày trên quê nhà
điêu linh.. Đầu xuân năm 1975, vào buổi Tháng Ba, thêm một lần người Miền Nam tự hỏi: Cộng sản
sắp đánh ở đâu? Khi nào sẽ đổ ra thêm một trận máu xương với lực lượng cộng sản
miền Bắc nhất quyết thực hiện bước cuối cùng cái gọi là sự nghiệp “giải phóng
miền Nam thống nhất đất nước”. Sự nghiệp cách mạng mà 40 năm sau 1975 bày ra
tình cảnh nguy nan vô hạn với hiễm họa mất nước về người Hoa, và xã hội Việt
Nam chìm ngập xuống vực thẵm băng hoại, suy vong
Vào Tháng Ba năm 1975, lãnh thổ miền Nam đã bị mất một phần
thuộc phía bắc sông Thạch Hãn, Quảng Trị của quân Khu I; ở Quân Khu II mất phần
đất nằm về mặt bắc và tây của vùng Trường Sơn; Và quanh Sài Gòn một vùng rộng
lớn của miền Đông Nam Bộ từ thượng lưu sông Đồng Nai qua Phước Long, Bình Long,
Tây Ninh về Long An, Hậu Nghĩa, xuống Kiến Tường, Định Tường thuộc châu thổ
sông Cửu Long. Trong tình hình chung như vừa kể, Thiếu Tướng Phạm Văn Phú Tư
lệnh Quân Đoàn II đóng ở Pleiku lúc ấy không thể quyết đoán cụ thể về kế hoạch
quân cộng sản sẽ đánh ở đâu trong vùng Quân Khu II. Trong khi ấy, cộng sản Hà
Nội lập kế hoạch, bắt đầu với chiến dịch Tây Nguyên từ 4 tháng 3 đến 3 tháng 4
năm 1975 mang mật danh là Chiến Dịch 275. Cuộc tiến công xử dụng các đơn vị cấp
sư đoàn bộ binh Bắc Việt có chiến xa, đại bác nặng yểm trợ khởi cuộc nổ súng từ
ngày ngày 10 Tháng 3 năm 1975 với mục tiêu là Ban Mê Thuộc, thành phố cực Nam
của vùng cao nguyên. Bộ chính trị, quân ủy trung ương tại Hà Nội đã điều động
thực hiện cuộc tấn công miền Nam với hai lợi điểm mà thật sự là hai ưu thế
quyết định. Đấy là sự bất ngờ về tình báo thêm được bảo đảm bằng cái ô chính
trị tuyệt đối an toàn tức là biết chắc Mỹ sẽ không bao giờ can thiệp lại vào
Việt Nam. Cụ thể Hạm Đội Mỹ quay mặt trước lần hải quân Trung cộng đánh chiếm
Hoàng Sa của VNCH, tháng 1, năm 1974.
Trong cuộc họp mật của Bộ Chính Trị Trung Ương Đảng vào
tháng 1 năm 1975 trước khi phát lệnh tấn công miền Nam theo kế hoạch Chiến Dịch
275, Ông Phạm Văn Đồng, thủ tướng chính
phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa một bên ký kết Hiệp Định Tái Lập Hòa Bình tại
Việt Nam đã hân hoan tuyên bố: “Cho kẹo
Mỹ cũng không dám trở lại Việt Nam!"
Ngày 10 Tháng 3 năm 1975, quân đoàn Tây Nguyên dưới quyền
tổng chỉ huy của Tổng tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng đến từ Hà Nội đồng loạt tấn
công vào thị xã Ban Mê Thuộc với những sư đoàn 324, 324B, 320, 308, 316 và cả
sư 341 tổng trừ bị của quân đội miền Bắc. Nhưng khi quân dân Ban Mê Thuộc đang
trên bờ vực sống-chết thì báo chí thế giới, báo cộng sản ở Hà Nội, báo phản
chiến ở Sàigòn đều đồng thanh phát biểu: "Cách mạng giải phóng miền Nam là
do mâu thuẫn giữa giai cấp cách mạng và giai cấp phản cách mạng; giữa nhân dân
tiến bộ và thành phần ngụy quân, ngụy quyền phản động; giữa lực lượng vũ trang
cách mạng và tập đoàn quân phiệt, phát xít công cụ của chủ nghĩa thực dân mới
kiểu Mỹ..."
Với sư đoàn F10 làm mũi nhọn được hai sư đoàn 320, 316 tăng
cường, và sư 341 làm tổng trừ bị, lực lượng cộng sản có khoảng 25,000 người
được pháo binh, chiến xa nặng yểm trợ phối hợp. Đối lại tại thị xã Ban Mê Thuộc
phía VNCH chỉ có khoản 1,200 lính chiến đấu trong tổng số lính hậu cứ của Sư
Đoàn 23 Bộ Binh, lực lượng Địa phương quân Tiểu khu Đắc-lắc, và Liên đoàn 22
Biệt động quân. Thế nên từ hai giờ sáng ngày 10 tháng Ba, giờ mở lệnh tấn công
mà tướng Dũng ước tính chiến trận Ban Mê Thuộc sẽ chấm dứt sau một tuần nhưng
chỉ đến 5 giờ 30 chiều cùng ngày, thị xã Ban Mê Thuộc hầu như thuộc về phần
kiểm soát của quân Bắc Việt cho dù Biệt Động Quân và bộ binh vẫn tiếp tục chiến
đấu. Dũng cứ tưởng như là giấc mơ. Và Dũng đã đi từ giấc mơ sang một vùng ảo
giác vào những ngày sau khi được báo cáo: Quân đoàn II tháo chạy!
Cuộc di tản dọc Tỉnh Lộ 7 theo lộ trình Pleiku-Phú Bổn xuống Tuy Hòa quá lớn
với mối đau thương dài đặt trên hai trăm
cây số đường núi với hai trăm ngàn dân thường đi từ hai thành phố Kontum,
Pleiku. Phải, chỉ là dân thường những người nghèo không đủ tiền mua vé máy bay
vào những tuần, tháng trước. Trời cao nguyên buổi tàn xuân gây gây rét vào
sáng, càng về trưa nắng cao và nóng khô khan, đường bụi mù tung đỏ bám vào
thành xe, nòng pháo, khí cụ, tóc và da mặt ngưi, vạn tròng mắt đỏ rực. Những
tròng mắt mệt mỏi lo âu, tuyệt vọng. Phía sau lưng, thị xã Pleiku bốc lửa ngọn,
khói đen đặc ngật ngật bay lên cao hơn đỉnh núi Hàm Rồng. Lửa lóng lánh ánh
sáng kinh dị trong đôi ngươi những người lính Liên Đoàn 7 Biệt động quân, thành
phần hậu vệ đoàn di tản. Trời cao nguyên với thị trấn Pleiku thường chĩu lặng
sương mù nay oằn thân vật vã trong màu lửa địa ngục. Lửa từ khối đống kim loại
vũ khí, từ những kho quân nhu, quân cụ soi loang loáng chập chờn những đường
dốc hun hút lẫn khuất dưới tàng thông. Tất cả đồng nhóm lên màu đỏ chói. Màu đỏ
của máu lửa soi chập chờn đoàn người di tản thê thiết. Đoàn di tản qua được một
ngày bình an. Bình an sống sót qua đói, khát, nhục nhằn và lo âu. Lính gục trên
mũi súng, đàn bà, con trẻ nằm rũ lên hành lý, thành xe, đất cát. Được sống,
được ngủ là hạnh phúc quá lớn hở trời? Còn biết kêu vào đâu? Với ai? Nhưng nỗi
bình an này không kéo dài được, bởi người cộng sản chỉ trong ngày 16 tháng Ba
đã tìm ra đáp số cho câu hỏi: Quân đoàn II đang tính gì sau chấn thương ngày 10
tháng Ba tại điểm bất ngờ Ban Mê Thuộc? Qua máy dò tìm làn sóng điện, Bộ Tư
Lệnh Mặt trận B3 cộng sản khám phá những phi cơ C47, C130 xuất phát từ phi
trường Cù Hanh (Pleiku) đi Nha Trang không có lượt bay về. Sự kiện nầy đã trút
mối âu lo của Tướng Dũng về việc lực lượng VNCH có thể điều quân tái chiếm Ban
Mê Thuộc. Thế nên Dũng ra lệnh cho Sư Đoàn 320 băng rừng truy kích đoàn di tản
và Sư Đoàn 968 từ Lào về trên đường bôn tập về hướng Pleiku cũng được lệnh đâm
ngang từ ngã ba Thanh An chuyển hướng hành quân dài theo Tỉnh Lộ 7 xuống đồng
bằng vùng duyên hải miền Trung.
Ngày 16 tháng Ba, Một Chúa Nhật điêu linh tan nát dọc con
đường đỏ sẫm đất núi và máu rây. Đoàn di tản bị chận ở phía đông Củng Sơn, bị
cắt rời ở quận Phú Túc, bị đuổi dập từ tây quận lỵ Phú Bổn. Xe tăng cán ngang
lên GMC, xe GMC hất xe đò chở thường dân xuống vực thẳm, cũng hất luôn những xe
jeep nhỏ, cán qua những chiếc xe Dodge 4 của địa phương quân chở những người
già và trẻ em tan tác. Chiếc vespa của một gia đình chạy lông lốc, xiêu vẹo
trên sườn đồi, đứa con, người vợ rơi tơi tả, người chồng, người cha rơi cuối
cùng với chiếc xe vỡ toang trên mỏm đá. Và súng nổ... 105, 155 pháo binh, hỏa
tiễn TOW, XM72 của phía cộng hòa; 130 ly, 122 ly, B40, B41 của phía cộng sản tất
cả cùng hòa vào nhau thành một luồng hỗn âm tan tác làm rung rinh sắc núi mờ
nhòa ánh nắng. Mặt trời bị chìm khuất
trong khói xám. Có xác bà già ngồi dựa bờ đất bên lề đường, người khô quắt
không vết thương. Dấu hiệu sự chết chỉ được nhận biết nơi ổ mắt, mũi, miệng...
Đám kiến rừng bò lúc nhúc quay quắt đánh hơi. Ba đứa trẻ mắt lạc thần ngồi nhìn
đoạn đường hỗn loạn không cảm giác. Bé trai nhỏ nhất gục đầu trên gối chị ngủ
lay lắt.
Bao trùm tiếng la khóc khản đặc của người có âm thanh của
đạn súng sơn pháo nổ thật gần. Sư đoàn 320 Điện Biên bắn thẳng xuống đoàn di
tản. Lính còn rõ phản ứng trú ẩn, chống cự, người dân chỉ biết đưa mắt nhìn lên
nơi đặt súng, nơi có những tiếng nổ khô, ngắn trước khi bị bùng vỡ phá toang.
Xác người tung lên theo đất bay bay.Cái chết không đơn giản, mau chóng bởi súng
đạn. Chết còn bị nhận chìm từ từ trong lòng chiến xa khi chiếc xe tăng chúc đầu
xuống đầu cầu nổi bắc qua sông Ba. Chiếc
cầu bắc vội mỏng manh không thể nào chứa nỗi sức nặng vạn con người, vạn chiếc
xe.. Chiếc tăng M48 như khối đá ấn mạnh xuống lòng chén nứt vỡ. Trong lòng xe
có tiếng người hét nghẹn, trên pháo tháp có đám người ngoi ngóp, người đạp lên
đầu, lưng, vai người để được thở được sống thêm vài giây ngắn. Chiếc xe chìm
xuống im lặng, kéo theo, mang theo, đè xuống rất nhiều thây xác. Xích sắt điên
cuồng đào xoáy giòng sông máu sẫm làm quẫy lên, tung tóe những tay chân người
kẹp dính đâu dưới lưn xe.
Cuối cùng đoàn di tản cũng về đến Tuy Hòa vào ngày 25 tháng
Ba do Tiểu Đoàn 58 Biệt Động dẫn đầu. Hai-trăm ngàn dân theo lính chạy loạn từ
Kontum, Pleiku nay còn khoảng sáu chục ngàn người. 200,000 trừ đi 60,000 vậy đã
chết bao nhiêu? Không ai có thể tính chính xác được số dân thiệt mạng. Người
chỉ biết và đau với trường hợp của từng người thân, của mỗi gia đình, của chính
thịt da mình. Trên chiếc trực thăng từ phi trường Đông Tác (Tuy Hòa) về Nha
Trang, viên thiếu tá ngồi ôm đứa con nhỏ, gục đầu nín thinh khi đứa bé chợt nhớ
và hỏi nhỏ... Bà nội đâu hở ba? Trong đêm khuya nơi trại tạm cư ở đèo Rù Rì,
nghe những lời than vãn rời rạc lẫn tiếng khóc nấc nghẹn ghìm ghìm. Trên bãi
biển Nha Trang từng khối người ngồi chập choạng dưới trăng khuya. Trăng vàng
chạch, đỏ nhừ nhừ như máu bầm. Trong lòng người di tản từ cao nguyên đồng bằng
trong tháng Ba năm 1975 hầu như ai cũng đọng khối máu uất nghẹn đau thương.
Khối máu oan hờn của một dân tộc điêu linh chỉ khác người dân miền Trung chịu
sớm nhất. Đau nhất.
Mùa Chúa chịu nạn giải cứu thế gian diễn ra cùng lần bức tử
miền Trung. Khởi đầu buổi Đồng Tế tàn cuộc miền Nam. Bắt đầu từ Ngày 10 Tháng
Ba ở Ban Mê Thuộc, dọc Tỉnh Lộ 7 B, con lộ máu dẫn về miền duyên hải. Hóa ra
không cần đủ hết tháng Ba, để tiếp theo tháng Tư thấm máu toàn miền Nam sụp vỡ. Thế nên, người
hôm nay phải viết lại, phải nói lên – Vì nếu không sẽ có tội – Tội với những
người đã chết mà lượng người chết trên Tỉnh Lộ 7 B là oan khiên đồng hiến tế khởi
đầu lần tận diệt Quê Hương. Của Quốc Gia Việt Nam Cộng Hòa.
Bốn Mươi Năm Trận Ban Mê Thuộc
Lần Khởi Cuộc Mất Quê Hương(10 Tháng 3, 1975-2015)
Liên đoàn 21 Biệt động quân không phải Liên đoàn 22 Biệt động quân
ReplyDeleteXin cám ơn , sẽ điều chỉnh
Delete