LTS:
Lam Hà là bút hiệu của cựu Đại Uý, cựu Học Sinh TH Phan Chu Trinh Đà
Nẵng, Sĩ Quan Tuỳ Viên cho Trung Tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lệnh QĐ1/QK 1
/VNCH. Bài dưới đây trích từ Nhật Ký của một Tuỳ Viên Tưởng Ngô Quang
Truởng.
Hôm
nay, ngày 23 tháng 10, năm 2010, tôi đi dự lễ tiễn đưa Đại Tá Đặng văn
Phước về nơi an nghỉ cuối cùng. Ông là Không Đoàn Trưởng Không Đoàn 51,
và chính ông là người đã nhận tín hiệu cuả tôi qua cái đèn bấm và cái
Samsonite, ông đã can đảm đáp xuống cột cờ BTL/HQVI Duyên Hải để cứu
Trung tướng Ngô Quang Trưởng Tư Lịnh Quân Đoàn I và tôi, ra khỏi vùng
nguy hiểm vào khoảng 2 giờ sáng ngày 29 tháng 3 năm 1975.
Sau
đó chúng tôi ghé núi Sơn Chà bốc Chuẩn Tướng Khánh, Tư Lệnh Sư Đoàn 1
Không Quân, rồi trực chỉ phi trường Non Nước để nhập cùng anh em Thủy
Quân Lục chiến Việt Nam.
Tôi
muốn giữ im lặng sau cuộc chiến, như bao nhiêu chiến binh chuyên nghiệp
khác. Nhưng tôi không thể nào quên được bài báo của Tiến Sĩ Lê Mạnh
Hùng đã đăng trong tuần báo Viet Tide cuả ông Vũ quang Ninh (chủ nhiệm)
và cô Mai Khanh (chủ bút).
Là
người học sử, hay viết sử, phải tôn trọng “sử xanh”, và là những người
có phương tiện truyền thông để dẫn dắt dư luận quần chúng, xin diễn đạt
vô tư, chính xác, và nhất là để cho các thế hệ con cháu biết sự thật là
tại sao thế hệ cha ông phải chiến đấu và đã chiến đấu như thế nào.
Bài báo đã đăng ở trang 71 (Viet Tide số 421)
Lá thư tôi hỏi và trang báo xin đăng đã bị phớt lờ.
Chúng
tôi, những
người đã tận tình phục vụ quê hương xứ sở, quên cả thân mình, cha mẹ,
vợ con cùng thân bằng quyến thuộc, đã làm hết khả năng và bổn phận của
người quân nhân trong cuộc chiến, rất buồn lòng khi bị đánh giá sai sự
thật.
Hôm
nay, giờ này, khi tôi đang viết những dòng chữ nầy thì có nhiều người
đã ra đi, có nhiều người ở lại quê nhà, và cũng có nhiều người đang chịu
trăm cay nghìn đắng trong khắp bốn phương trời ở xứ người.
Trong
lúc đó những ngưòi bạn cũ cũng như quân thù đã tìm cách bôi nhọ, hay đổ
tội cho QLVNCH , để nhằm mục đích tự tôn vinh hay che dấu mặc cảm phản
bội đồng minh.
Ba câu hỏi của tôi không được trả lời thì bây giờ tôi cũng xin
được nói lên để mọi người cùng biết:
1. Khi Đà Nẵng đang cơn hấp hối, tôi đã theo sát Tư Lệnh Quân Đoàn I cho đến ngày ra khỏi nước.
2. Tương quan lực lượng đôi bên.
2a. Lực lượng quân đội Cộng Sản:
Những lực lượng Tiền Phương Cộng Sản đang bao vây Đà Nẵng gồm :
- Các Sư đoàn 324B, Sư Đoàn 325,
- Một Trung đoàn chiến xa,
- Hai Trung Đoàn Pháo làm nỗ lực chính.
Tất cả theo Elephant Valley tấn công phía Bắc Đà Nẵng.
-Một
nỗ lực thứ hai là Sư Đoàn 711 cùng Mặt trận 44 tiến chiếm khu Kỹ Nghệ
An Hòa (quận Đức Dục) và quận Đại Lộc rồi tiến về phía Nam Đà
Nẵng.
Thành phố coi như nằm giữa hai gọng kềm của địch.
Tôi
nhớ một phái đoàn dân chính gồm có các đại diện dân cử, đảng phái và
thân hào nhân sĩ khoảng 10 người, trong số nầy tôi biết dân biểu Phước
(cựu HS Phan Chu Trinh và chúng tôi thường gọi là Phước Lít), Giáo sư
Trần ngọc Quế( giáo sư trường Phan chu Trinh và là một thành viên cuả
một đoàn thể chính trị), họ đến để yêu cầu Tư Lệnh Quân Đoàn có biện
pháp quân sự để Đà Nẵng không nằm chịu trận địa pháo như lòng chảo Điện
Biên Phủ.
Những đơn vị địch ở phía bắc đèo Hải Vân như
- Các Sư Đoàn 304, SĐ 308, SĐ 320 B và SĐ 312 đang ở đâu? Có phải chúng đang ở sau lưng những nổ lưc chính
không?
Đó là chưa kể những đơn vị địch ở Quân Khu II dồn lên vì QĐ II đã mất trước rồi.
2b. Lực lượng phía QĐVNCH gồm có:
- Sư Đoàn 3/BB, Sư Đoàn /TQLC trừ (vì Lữ Đoàn 147 xem như đã xoá sổ ở phía bắc đèo Hải Vân).
- Không Quân thì tất cả máy bay phải xuôi nam theo lệnh Bộ Tổng Tham Mưu.
- Pháo binh còn vài khẩu.
- Hải Quân chỉ có khả năng vận chuyển hạn chế.
- Sư Đoàn Dù thì đã hoàn toàn rút về Nam.
Quân
thất trận đi tìm gia đình, dân lánh nạn từ phía Bắc và phiá Nam đổ về
Đà Nẵng, khoảng 1.5 triệu người. Bình thường Đà Nẵng chỉ có khoảng
300,000 dân.
Người đi đứng chật đường không thể chen chân được; dĩ nhiên trong số
hổn loạn nầy có cả đặc công cùng tiền sát viên pháo binh Cộng Sản..
Đến đây thì Tiến Sĩ Lê Mạnh Hùng cùng quí độc giả đã thấy được quân số tham chiến đôi bên.
Sơ lược những biến cố cuối cùng tại Huế và Đà Nẵng:
- Đêm 25 tháng 3, 1975 Trung Tướng Ngô Quang Trưởng ra lệnh các lực lượng ở Huế rút về ĐN.
-
Ngày 26 tháng 3 Trung Tướng Trưởng và tôi bay trực thăng dọc theo bờ
biển và tôi thấy tận mắt quân dân bồng bế, gánh gồng dẫn dắt nhau di
chuyển về phía Nam. Đi đầu là ĐPQ/NQ tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên. Kế
đến là SĐ 1 rồi đến TQLC. Dân chúng thì chạy lẫn lộn trong đoàn quân
và phiá sau. Đa số trong số họ là gia đình quân nhân. Trông thảm thương
như cảnh Lưu Bị dắt dân Tân Dã chạy về Diễn Châu trong chuyện Tam Quốc
Chí.
Trung
Tướng Trưởng muốn tôi lên tầng số để Trung Tướng nói chuyện với Đại Tá
Lương, Lữ Đoàn Truởng LĐ 147. Về sau tôi được biết qua Trung Tâm hành
Quân QĐI là đoàn người đến cửa Tư Hiền thì tan tác vì không qua được cửa
Tư Hiền. Hải Quân và Công Binh nhận lãnh công tác đánh đắm một chiếc
tàu Hải Quân làm cầu nổi như dự định trong buổi họp trước đó tại
BTL/QĐI, nhưng họ đã không thực hiện được
Thêm
nữa đoàn người bị VC tác xạ và mạnh ai nấy chạy. Bộ Binh và ĐPQ/NQ về
đến Đà Nẵng được khoảng 1/3; Nhưng số nầy tan hàng trong hổn
loạn để lo đi tìm gia đình nên không còn kiểm soát được.
Sư Đoàn 1 coi như bị xoá sổ cùng với ĐPQ/NQ ở phía Bắc đèo Hải Vân.
Trong
ngày 26 tháng 3, 1975 Lữ Đoàn 147 TQLC không bốc được nên Lữ Đoàn đã
chiến đấu đến khi hết đạn. Một số tự tử và một số bị địch bắt.
Ngày 26 tháng 3, 1975 Huế xem như đã mất.
Tình hình phía Nam đèo Hải Vân cũng bi đát chẳng kém gì Huế.
Ngày 10 tháng 3 thì hai quận Hậu Đức và Tiên Phước bị tràn ngập bởi Trung Đoàn 52 và Sư Đoàn 711 của VC.
Ngày 24 tháng 3 Tiểu Khu Quảng Tín rút chạy về Đà Nẵng, và cũng ngày nầy Tiểu khu Quảng Ngãi rút về Chu Lai.
Ngày 26 tháng 3 Sư Đoàn 2
rút ra Cú Lao Ré. Thành phố Đà Nẵng lên cơn sốt hổn loạn. Cướp bóc đã xảy ra tại kho gạo gần thương cảng.
Sáng
ngày 28 tháng 3 Tư Lệnh Quân Đoàn cho triệu tập các cấp chỉ huy để tìm
biện pháp vãn hồi trật tự và tái trang bị cho những đơn vị có mặt trong
thành phố. Nhưng kế hoạch không thi hành được vì không đủ quân số tác
chiến, và hầu như một số lớn sĩ quan đã bỏ phòng sở để đi lo chuyện gia
đình. Tôi thấy chỉ có văn phòng Tư Lệnh còn làm việc còn tất cả phòng
ban trong bộ tư lệnh hầu như ngừng lại hết.
Vào
khoảng 2 chiều ngày ngày 28 tháng 3 Tiểu khu Quảng Nam xem như mất liên
lạc. Trung Tướng Trưởng và Tôi chỉ bay đến chi khu Hoà Vang rồi phải
trở lại BTL/QĐ. Chi Khu Hòa Vang ở sát phi
trường Đà Nẵng. Như vậy QĐI chỉ còn lại Thành Phố Đà Nẵng và Phi Trường
chưa bị VC chiếm mà thôi.
Lực lượng đáng kể để phòng thủ Đà Nẵng chỉ còn Sư Đoàn 3 và 3 Lữ Đoàn TQLC mà thôi
Trong
suốt những tháng ngày ở Mỹ, Trung Tướng Trưởng vẫn thường gặp và đặt
giả thuyết với các cấp chỉ huy thuộc quyền rằng nếu khi ấy chúng ta tử
thủ Đà Nẵng thì chúng ta có giữ được không? Và việc gì sẽ xãy ra.?
Bây giờ tôi xin chuyển câu hỏi nầy lại cho quí độc giả.
Đến đây tôi cũng xin nhắc đến Sư Đoàn 3.
Sư
Đoàn được thành lập với chủ lực là Trung Đoàn 2 cuả SĐ1 BB cùng với
quân nhân đủ mọi thành phần: quân nhân
văn phòng, quân phạm, hay bị trù dập và bị tống ra Sư Đoàn 3, và Sư
Đoàn nầy ra trấn ải địa đầu giời tuyến. Sư Đoàn bị mang tiếng “chạy
làng” khi VC ồ ạt tràn quavùng giới tuyến phi quân sự, để tấn công quân
ta . Ai giỏi hơn ai để không “chạy làng”?
Khi lực lượng Đồng Minh chưa rút đi, thì lực lượng cuả họ gồm
- Sư Đoàn 3/ TQLC/ Hoa Kỳ
- Thêm Trung Đoàn 1/ TQLC/ Hoa Kỳ tăng phái.
- Sư Đoàn 101 Nhảy Dù/ HK,
- Lữ Đoàn 5 Cơ Giới.
Một tiểu đoàn cuả họ vừa tăng phái lẫn cơ hữu vào khoản 1,500 quân nhân – bằng quân số một trung đoàn chiến đấu của ta.
Hoả
lực
cuả một Sư Đoàn / Hoa Kỳ chấp cả Hoả lực cuả QĐVNCH không địch nổi. Họ
có hỏa lực cuả Không, Hải, Lục yểm trợ tối đa. Mất một sư đoàn là rung
chuyển cả nước Mỹ. Một sư đoàn chiến đấu nhưng cả 250 triệu người yểm
trợ cả phương tiện lẫn tinh thần. Ngày tôi theo Tiểu Đoàn 3/1 TQLC /Hoa
Kỳ hành quân ở vùng Quảng Nam thì một hồi chánh viên nói cho biết rằng
các đơn vị VC rất sợ đụng trận với Mỹ. Tôi hỏi lại anh ta: vậy chúng
tôi, QLVNCH, đánh giặc dở hơn Mỹ phải vậy không thì anh ta trả lời rằng
không phải vậy - Chúng tôi ít sợ các anh vì các anh bắn ít hơn nhiều,
còn Mỹ thì họ bắn như mưa. Anh xem các cây trong làng, có cây nào không
đầy vết đạn chằng chịt. Thế nhưng ngày tôi theo Tiểu Đoàn 2/1 TQLC / Hoa
Kỳ, tăng phái cho Sư
Đoàn 3 / TQLC / Hoa Kỳ, tại phía nam Cồn Thiên vẫn phải chịu trận pháo
kích 61 và 82 ly cuả quân chính qui cộng sản mấy tháng trời.
Đám
quân sinh Bắc tử Nam còn dám tấn công các đơn vị Mỹ ở vùng phi quân sự
như ở Cồn Thiên, Khe Sanh huống gì một Sư Đoàn tân lập như Sư Đoàn 3?
Những
ngày cuối cùng cuả Đà Nẵng nếu không có Sư Đoàn 3, thì Sư Đòan / TQLC /
VN không rút xuống tàu được. Sư Đoàn 3 đã bị hi sinh ngăn chận địch và
không có kế hoạch bốc Sư Đoàn 3.
Tổng
Thống Thiệu đã đặt câu hỏi cho Trung Tướng Trưởng là nếu rút, thì rút
được bao nhiêu quân? . Ưu tiên vẫn là rút Sư Đoàn Dù, Sư Đoàn /TQLC để
có lực lượng làm hơi thở cuối cùng cuả
VNCH.
Lữ Đoàn I Dù còn lại sau cùng chỉ được
dùng để ứng chiến nhằm nâng cao tinh thần quân dân mà không được phép xử
dụng tác chiến. Sư Đoàn / TQLC cũng vậy; phải làm sao rút được về Sài
Gòn.
Khi Tư Lệnh Sư Đoàn 3 về họp lần cuối cùng
đêm 28 tháng 3 tại BTL / Hải Quân/ VIDH thì chỉ được biết bất ngờ là
phải rút về vùng Horse Shoe gần sông Thu Bồn mà không thấy nói di tản Sư
Đoàn 3.
Phương tiện và tình thế chỉ có thể lo
cho 2 Sư Đoàn tổng trừ bị mà thôi. Đến đây tôi xin trả lời nghi vấn cuả
Đại Tá Phạm Bá Hoa trong “Đôi Dòng Ghi Nhớ” rằng không có quan Xịa nào
khuyên đừng đánh cả. Phiá Việt cũng như Mỹ và kể cả Trung Tướng Trưởng
chỉ muốn bảo toàn lực lượng để
lo chuyện khác về sau, và khả năng chỉ có thể lo cho hai Sư Đoàn Tổng
Trừ Bị mà thôi. Sư Đoàn 3 đã bị làm con chốt thí.
Trong
quân sử chiến tranh Cao Ly: khi chí nguyện quân Cộng Sản Trung Hoa ồ ạt
tấn công thì quân Mỹ và Nam Hàn phải rút về phiá Nam. Sư Đoàn 1/ TQLC/
Hoa Kỳ phải làm nút chận cho quân bạn rút lui . Sư Đoàn nầy đã chiến đấu
oanh liệt; nhưng họ phải trả một giá quá đắt: hơn 800 Sĩ Quan và nhiều
ngàn binh sĩ hi sinh sau khi họ tự giải cứu và rút sau cùng.
Sư
Đoàn 3 cuả chúng ta không làm được như vậy, không có quân bạn gíúp đở,
để dựa lưng, trưóc mặt là địch, sau lưng là bạn. Sư Đoàn đã phải tứ bề
thọ địch.
Hơn
nữa chính phủ và nhân dân cuả Sư Đoàn 1 / TQLC /
Hoa Kỳ không bỏ rơi họ, trong khi các bạn (Sư Đoàn 3) hoàn toàn bị bỏ
rơi. Các bạn ( Sư Đoàn 3) đã chiến đấu oanh liệt trong một hoàn cảnh
nghiệt ngã. Xin đứng nghiêm kính chào các chiến hữu Sư Đoàn 3 đã nằm
xuồng, hoặc đang quằn quoại đau thương tại quê hương Quảng Đà.
Giờ phút cuối cùng tại Đà Nẵng:
"GIỜ NÀY DCT/72 LÙNG BÙNG TRÁNH PHÁO VC TRONG CẦU TẦU CỦA BẾN CẢNG TIÊN SHA"sáng sớm ngày 29 thang3/75"
Sáng
sớm ngày 29 tháng 3, năm 1975 chúng tôi tiến ra bờ biển để lội lên tàu.
Ngoài TQLC ra, tôi đếm BB có khoảng 13 người: Tr/T Trưởng, Tôi , Đại Tá
Duệ (Tỉnh trưởng Thưà Thiên), Đại Tá Kỳ (Tỉnh Trưởng Quảng Trị), Trung
Tá Tuân (Phòng 3 QĐI) và
mấy người nữa tôi không nhớ tên.
Tôi
đi lòng vòng để tìm một cái phao cho TR/T Trưởng nhưng không tìm được.
Các phi cơ trực thăng và Chinooks đang tiếp nhiên liệu bằng cái mũ sắt.
Họ phá hai chiềc để lấy nhiên liệu đổ vào một chiếc. Đi đến đâu thì
những người trên phi cơ cũng đều chĩa súng vào tôi.
Tôi gặp thiếu tá Hiếu, người trước đây từng lái trực thăng cho Tr/T Trưởng, và ông la to,
” Đừng bắn nó, nó là bạn tao,”
Ông hỏi: “ Mầy có đi thì lên đi với tao.”
“Không,” tôi trả lời”
Thiếu tá có cái phao nào cho tôi một cái cho Tr/T Trưởng.”
“ không, tao không
có.
Mầy có đi không?” Ông lại hỏi
” Không, tôi còn phải lo cho Tr/T Trưởng ” tôi trả lời.
Ông chúc tôi may măn và tôi cũng chúc lại ông may mắn.
Tôi
trở lại tìm TR/T Trưởng thì thấy Thiếu Tá Phương (TQLC) đã nhường cái
phao mang cho Tr/T Trưởng mặc dù Th/T Phương không biết lội. Đại Tá Trí
kẹp Tr/T trưởng một bên, một bên thì Th/T Phương kẹp. Tôi vớ một khúc gỗ
cuả một cái bunker cũ để làm cái phao. Một tay tôi nắm thắt lưng TR/T
Trưởng để đẩy ông, một tay ôm khúc gỗ và cả ba chúng tôi dìu ông lội ra
tàu.
Biển động, sóng lớn, không có cầu tàu. Nhiều lúc sóng phủ tôi bị chìm lĩm. Chúng tôi lội đến vừa lút đầu thì lên được
tàu.
Sau khi lên đến nơi thì TR/T Truởng mê
sảng và tôi cũng ngất đi một khoảng thời gian dài vì một phần đói, một
phần uống nhiều nước mặn khi sóng phủ, một phần vì quá mệt.
Theo Trung Uý Bình, Hạm Phó LST 404, thì Tr/T Trưởng đã nói trong lúc mê sảng:
”Bây giờ Tổng Thống biểu tôi phải làm gì?”
“Làm như vậy thì làm sao tôi nói với các Tướng dưới quyền tôi được.”
Khi tàu đang lênh đênh ngoài khơi Đà Nẵng thì chúng tôi nhận được lệnh Tổng Thống Thiệu phải tái chiếm ĐN.
“Bây giờ tôi đi với ai và lấy gì để tái chiếm.”
Tr/T Trưởng nói một mình và ông ra lịnh cho HạmTrưởng đưa ông và TQLC
xuôi Nam.
Trên
đường xuôi Nam, tôi và Chuẩn Tướng Khánh , mỗi bữa hai người chia nhau
nửa muỗng cơm và nữa muỗng nước của anh em hải quân nhịn miệng để dành
cho. Chúng tôi không có thực phẩm và nước uống. Theo anh em HQ cho biết
tàu vừa xong công tác và trên đường về bến thì nhận được lệnh quay trở
ra Đà Nẵng vận chuyển QĐ I nên không có tái tiếp tế
Về
đến Saì Gòn thì Tr/T Trưởng đã kiệt lực nên được đưa vào Tổng Y Viện
Cộng Hoà. Vài ngày sau ông tỉnh táo lại và đã khóc khi tôi đứng bên
giường bệnh cuả ông, và ông đã than thở rằng: “Nhờ trời giúp tôi với Hòa
mới vào được tới đây.”
Còn
nhiều chi tiết nhưng bài báo giới hạn. Một ngày nào thuân
tiện tôi sẽ viết nhiều hơn. Trước khi tạm chấm dứt bài nầy tôi xin thưa
rằng trong sách “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” cuả Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng
vừa mới phát hành có đề cập đến Sư Đoàn 1 tự động tan hàng ở Huế là
không đúng. Đối với Tr/T Trưởng một đôi khi một đaị đội BB do một Thiếu
Úy chỉ huy đang chạm địch ông cũng đáp xuống xem xét và tôi đã toát mồ
hôi hột vì sợ không bảo vệ được ông. Chuyện một đại đơn vị cấp Sư Đoàn
tự động giải tán mà Tr/Tướng Trưởng không biết, thì không thể nào có thể
xảy ra được. Chuyện lệnh lạc tiền hậu bất nhất cuả Tổng Thống Thiệu thì
có và đúng “solid 100%”. Tôi còn vài tài liệu để chứng minh điều này.
Ngày
tháng qua đi, qua đi…Mọi
sự rồi cũng chẳng còn gì cả. Tổng Thống Thiệu đã ra đi, Đại Tướng Viên
đã ra đi, vị tướng tài ba và đức độ Tr/T Ngô Quang Trưởng ngày nào của
lòng tôi kính mến cũng đã ra người thiên cổ. Các niên trưởng cuả tôi như
Chuẩn Tướng Khánh, Đ/T Duệ, Đ/T Phước cũng đã ra đi, và rồi chúng tôi
cũng sẽ mờ dần theo năm tháng… Nếu có còn chăng là đôi dòng lịch sử vây
xin tôn trọng “sử xanh” và đừng bẻ cong ngòi bút vì bất cứ lý do nào.
“Biết thì nói rằng biết, không biết thì nói rằng không biết.”
Nếu dẫn chứng cho lập luận cuả mình thì xin nêu rõ xuất xứ (foot
notes). Xin đừng nói rằng nghe người nầy, người kia nói, là vô căn cớ.
Tiến
Sĩ Lê Mạnh Hùng và Tiến Sĩ Nguyễn Tiến Hưng đã làm buồn
lòng những người đã ra đi và những kẻ còn ở lại. Chúng tôi đã từ bỏ tất
cả kể cả gia đình thân yêu để làm hết sức mình cho tổ quốc, cho quân
đội và cho lý tưởng.
Quân
đội nào cũng có một vài cấp chỉ huy hèn mọn, khi địch chưa đến đã bỏ
chạy. Quân Đoàn I cũng không ra ngoài cái thông lệ tầm thường đó; nhưng
không phải tất cả cấp chỉ huy đều hèn nhát bỏ chạy về đến Sài Gòn trong
lúc còn 100,000 quân còn ở lại chiến đấu tại Đà Nẵng.
Tôi
là một cá nhân nhỏ bé tầm thường nhưng may mắn còn sống sót sau biến cố
1975. Ở một góc độ nhỏ bé nào đó tôi đã thấy, đã nghe và đã chịu đựng
những điều đã xảy ra vì vậy tôi phải nói cho những người không còn nói
được nữa, hay họ không bao
giờ muốn nói.
Hà Lam
No comments:
Post a Comment