Thursday, June 25, 2015
Chuyến Đi Không Tên
Đáng lẽ tôi không muốn nhắc lại các vết thương lòng đã xảy ra từ lâu, vì khơi lại chỉ làm lòng tôi đau xót, nhức nhối. Nhưng việc không lên tiếng của tôi sẽ làm tôi có lỗi với những người đi trước, với các NT, anh chị em đã nằm xuống cho đất Mẹ VN.
Nhân đây tôi cũng muốn gửi một nén hương để tưởng nhớ đến công ơn dìu dắt, và nâng đỡ tôi trong thời gian đang công tác như cố Đại tá Lê Quang Tung, cố Đại Tá Lam Sơn (Phạm Đình Thứ, 1964), cố Đại tá Trần Văn Hổ (1964-1966).
Nguyễn Văn Tuyết.
Từ thuở còn học sinh tôi có người bạn tên Trần Hiếu Hòa. Ngoài học văn hóa, tôi và bạn tôi còn say mê học võ thuật. Chính vì điểm này, cả hai có cơ hội vào ngành Tình báo rất sớm, mặc dù hoàn cảnh gia đình cũng như tình trạng học vấn không bắt chúng tôi làm như vậy.
Nói đến hai chữ Tình Báo thì đa số hiểu là làm một việc gì đó có tính cách bí mật. Nhưng nếu đi vào chuyên môn, thì đây là một lãnh vực đa dạng, với mỗi cá nhân nhận những nhiệm vụ riêng biệt, từ thấp đến cao, qua mỗi lần thi hành xong một nhiệm vụ rồi trở về hậu cứ. Lần sau khi xuất phát, người đi công tác phải học lại cho phù hợp với thực tế, vì trang thiết bị và vũ khí cho mình và của địch luôn thay đổi theo thời gian. Tôi và Hoà đã tham gia các khóa học đặc biệt về Tình báo. Theo thời gian chúng tôi dần dần trưởng thành qua những lần công tác.
Sau một thời gian công tác, tôi trở về Phòng Hoạt Động của Tổng Thống Phủ (P42) còn Hòa về làm Trưởng Phòng 5 của ông Đỗ Cao Thanh.
Sau ngày 1-11-1963, tôi đã bị gọi lên thẩm vấn điều tra. May mắn thay, tôi đã được Đại tá Ngô Du gửi đi học khoá Trung Cấp Tình Báo vì biết tôi không có những liên hệ nào đặc biệt với chế độ cũ. Năm 1964, tôi được thuyên chuyển về Phòng 6 Bộ Tổng Tham Mưu.
Đến tháng 6-1964, tôi chính thức làm việc tại Phòng 6 của Sở Kỹ Thuật (đổi tên thành Sở Khai Thác Địa Hình) và được lĩnh lương sai biệt. Tôi được lệnh đưa các toán Biệt kích tới Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng. Đầu tháng 11 năm 1964, việc huấn luyện của các toán đã qua giai đoạn 2 và sẽ thực tập Nhảy dù tại Đà Lạt, sau đó theo học khóa HT 98 tại trường Truyền Tin Vũng Tàu. (Chỉ huy trưởng là Thiếu Tá Hoàng Hữu Gia.) Khi đến đây, mọi thủ tục giữ bí mật được áp dụng, các Học viên không được nói sự thật về đơn vị mình đang phục vụ để bảo toàn an ninh. Để giống mọi người, các học viên mặc Quân phục kaki vàng, và Quân phục tác chiến giống TQLC.
Mới vào Quân trường nên một số người ngoài đơn vị cũng đến làm quen và hỏi thăm vì tò mò muốn tìm hiểu. Một số khác không quan tâm. Nhưng lại có người không tin, gây sự cho là khóa sinh mới đã ăn cấp kiểu Quân phục của họ và gây lộn. Thiếu tá Hoàng Hữu Gia đã phải đưa đại đội ứng trực xuống để ổn định tình hình. Vì người bị ăn cắp đồ là Thiếu úy Kim, Khóa 11 TĐ, là cháu Trung tướng Nguyễn Ngọc Lễ, nên Đại tá Lê Nguyên Khang, Tư Lệnh TQLC, phải ra tận nơi để giải quyết. Sau đó Thiếu tá Gia đã bị đổi đi và Thiếu tá Vũ Duy Tạo về thay thế làm Chỉ huy trưởng trường Truyền Tin.
Vào khoảng giữa năm 1965, Trần Hiếu Hòa giới thiệu với tôi Trung úy Bình (tức Nguyễn Hữu Luyện) một Sĩ quan mới về nhậm chức tại đơn vị. Qua bạn Hòa, tôi được biết anh Luyện là người thẳng thắn, có thâm niên Quân đội, và có nhiều kinh nghiệm tác chiến. Anh Hòa và anh Luyện muốn lập các toán xâm nhập miền Bắc. Anh Luyện sẽ là Trưởng Công Tác đầu tiên đi cùng toán. Anh Hoà sẽ lo việc tuyển dụng nhân viên, sắp xếp, tổ chức theo ý của anh Luyện, và được sự chấp thuận của Trung Ương.
Việc tuyển dụng nhân viên không phải lúc nào cũng dễ dàng. Trong khi làm việc, tôi đã phải từ chối một người tên Nghiã vì anh này khai dối là đã đủ 18 tuổi. Hơn nữa, trong nhà đã có mấy anh lớn phục vụ trong Quân đội, và Nghiã là con út đang đi học. Theo luật thì Nghiã không phải bị động viên. Thời gian qua khi đủ 18 tuổi, anh này lại làm đơn xin gia nhập một lần nữa. Về tình tôi đã xiêu lòng, nhưng về lý buộc tôi phải hỏi cha mẹ anh có đồng ý hay không ? Một khi tin không lành đến nhà thì gia đình họ sẽ có đủ lý do để bắt lỗi tôi. Vả lại, tôi cũng đã bị phiền toái nhiều lần vì cha mẹ vợ con người bị tử nạn đến ăn vạ, bắt đền. Khi được biết Nghiã đã nói dối cha mẹ là đi Cảnh sát, tôi đã từ chối thẳng.
Sau một thời gian, tôi lại nhận được đơn tình nguyện của Nghiã lần thứ ba. Lần này, Nghiã đã thuyết phục được bố mẹ của mình. Tôi đã nhận được tờ giấy "ưng thuận cho con đi lính" với chữ ký của người mẹ. Khi tôi dến để xác minh lần chót, cha mẹ Nghiã có một yêu cầu nhờ tôi giúp đỡ. Đó là tôi ở đâu thì Nghiã ở đó. Trong khi tôi còn đang chần chờ thì Nghiã đã đạp chân tôi nhiều lần ở dưới gậm bàn mong tôi chấp thuận. Tôi đã biết có nhiều người trẻ tuổi, chỉ sau một thời gian, đã nản chí không muốn phục vụ nữa. Chính vì suy nghĩ như vậy nên tôi tạm thời chấp thuận.
Đúng lúc này, anh Luyện đang tuyển dụng nhân viên. Tôi đã chuyển hết hồ sơ cho anh Luyện với một điều kiện tiên quyết là Nghiã không được xa tôi. Tôi đã sắp xếp cho Nghiã học Truyền Tin để sau này có thể hoán chuyển dễ hơn.
Tháng 10-1965, khi việc tuyển dụng tạm xong, tôi được chuyển đến Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng, Long Thành, Biên Hòa cùng anh Hòa và anh Luyện. Tại đây, khoá huấn luyện được đặt tên là Bắc Bình. (Muốn giống đội quân Tây Sơn của Nguyễn Huệ.) Đại đa số tinh thần các học viên rất cao, nhưng kinh nghiệm chưa có. Để thuận tiện công tác trên lãnh thổ Lào, anh Luyện có nhờ tôi liên lạc với anh Nguyễn Mạnh Hải, một Việt Kiều từ Thái Lan về nước, đang là một Hạ sĩ quan sửa chữa vũ khí binh đoàn thuộc Trung Đoàn 12, Sư Đoàn 7. Anh Luyện đã sắp xếp tôi, Hòa, và Hải tại ban chỉ huy của toán. Mỗi toán được chia thành 4 toán nhỏ độc lập, với hơn chục người mỗi toán. Nguyễn Ngọc Lân làm Trưởng Toán A1, Hà Huy Tuấn, Trưởng Toán A2, Mai Nhuệ Anh, Trưởng Toán B1, Hoàng Đình Khả, Trưởng Toán B2.
Các khóa sinh được học chuyên môn, từ vũ khí, nhảy dù, phá hoại, chất nổ, tình báo, tâm lý chiến, bản đồ, địa bàn, đến truyền tin... Giữ lời hứa với gia đình Nghiã, tôi đã lo cho anh đủ điều, như đưa tiền cho anh ta chi tiêu lặt vặt, trong khi tôi đã giữ tiền lương tháng của Nghiã. Sau vài ba tháng khi Nghiã được đi phép, tôi đã đưa lại để anh mang về cho gia đình. Một người khác, cũng đã nhờ tôi giữ hộ lương của mình, giống như Nghiã.
Một thời gian sau, Trần Hiếu Hòa được cử đi tuyển dụng toán độc lập khác.
Tháng 5-1966, các toán Biệt kích thực tập xâm nhập trên đất địch, nhảy dù tại Đà Lạt, và được đánh giá về khả năng hoạt động độc lập. Sau khi toán được rút về trung tâm và nghỉ phép, họ đã được chuyển lên Kontum và Khâm Đức để thực tập bằng trực thăng bán phản lực. Cuối tháng 6-1966, tôi được lệnh về trình diện Trung tướng Nguyễn Văn Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, để nhận nhiệm vụ mới. Tôi đã xin hoãn lại một thời hạn với lý do sắp xếp tình cảm với anh em, sao cho tình lý được vẹn toàn. Chính vì lẽ đó, tôi trở lại TTHL Quyết Thắng làm việc. Nơi đây, các toán đã được huấn luyện đổ bộ bằng trực thăng và thám sát đường mòn HCM. Đến trung tuần tháng 6, các toàn chuyển ra trại 6 Mỹ Khê, Đà Nẵng sẵn sàng thi hành nhiệm vụ.
Anh Luyện dự trù sẽ dẫn toán đi đợt 1. Đại úy Nguyễn Văn Vinh vốn là một trưởng công tác dày dạn kinh nghiệm chịu trách nhiệm lương bổng. Đa số thành viên trong toán 2 hăng say nhưng thiếu kinh nghiệm nên anh Luyên đã yêu cầu tôi ở lại toán này để quyết định việc xâm nhập cùng 3 toán trưởng còn lại. Chuẩn úy Đặng Đình Thúy sẽ cùng đi nhưng đến vùng công tác sẽ sắp xếp để làm cố vấn bản đồ, địa bàn cho toán B2 của anh Hoàng Đình Khả. Trong lúc chờ lên đường tại bãi Mỹ Khê, Đà Nẵng, anh Hoàng Đình Mỹ gặp tôi xin ở lại để cùng đi với toán 2 của tôi. Tôi đã thẳng thắn từ chối vì đây thuộc thẩm quyền của anh Luyện, trưởng toán.
Sau khi chia tay, toán HECTOR 1 lên đường xâm nhập vào vùng công tác vào hạ tuần tháng 6-1966. Khi nhận được công điện của Bản Văn số I có đoạn “MẶT TRỜI MỌC”, tôi được ông Vinh cho biết toán đã được thả an toàn. Trong lúc chờ lệnh lên đường, toán 2 vẫn tiếp tục thực tập tại bãi biển Mỹ Khê.
Ông Phan Trọng Sinh, đại diện Sở Liên Lạc tại Quân Đoàn I, đã đến gặp chúng tôi, yêu cầu cử một toán Biệt kích xuống Thường Đức, vì Thiếu tướng Hoàng Xuân Lãm không muốn xử dụng một đơn vị Lôi Hổ cho công tác đặc biệt tại vùng này. Theo nguyên tắc, khi một toán được cử đi công tác, bắt buộc phải có cố vấn người Mỹ, cùng các máy truyền tin, đi theo để sẵn sàng yểm trợ. Trung tá Cố Vấn Mỹ Simon đã không đồng ý nên kế hoạch này không thể thực hiện. Trong khi nói chuyện, ông Sinh đã hỏi tôi có đồng ý thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này ?
Biến động Phật Giáo Miền Trung đã ảnh hưởng nhiều đến tình hình an ninh QK I, cũng như hạn chế phần nào hoạt động Quân sự của ta tại đây. QĐ I muốn giải tỏa vùng Thường Đức vẫn còn bị VC chiếm đóng, nhưng Quân Báo của Sư đoàn 2 và QĐ I chưa sẵn sàng thực hiện. Chưa kể, nếu tiến hành ngay thì các đơn vị Quân Báo cũng không dễ gì hoàn thành nhiệm vụ, và khó tránh khỏi thương vong. Cũng cần thêm, Thường Đức là yết hầu của Đà Nẵng. Chừng nào Thường Đức còn bị VC chiếm đóng thì chừng đó tình hình an ninh của Đà Nẵng, nói riêng và QĐ I còn gặp nhiều nguy hiểm. Đánh giá được nhiệm vụ quan trọng này nên tôi đã đồng ý dùng toán của tôi nhảy vào khu vực do Tướng Lãm yêu cầu. Dĩ nhiên, chúng tôi phải được Trung Ương chấp thuận.
Sau khi nhận lời, tôi đã vội bay vào Sài Gòn để trình bày cùng ‘thượng cấp” về đề nghị của Tướng Lãm. Tuy nhiên, tôi lại nhận được tin không vui. Người bạn thân của tôi, Trần Hiếu Hoà, đang bị giam tại “cải hối thất” thuộc Bộ TTM vì vi phạm kỷ luật. Sau khi tìm hiểu lý do vi phạm của bạn tôi tại Trung Tâm Huấn Luyện Quyết Thắng, tôi quay lại Bộ TTM vào gặp các bạn tôi đang ở trong tù, gồm có : Trần Hiếu Hòa -Trưởng Toán T, Phạm Bá Toán - Trưởng toán KERN B, Nguyễn Văn Thái A - Toán KERN B Nguyễn Văn Sáng - Lôi Hổ - Sở Liên Lạc - Nguyễn Văn Tân (Tân Bé).
Khi trình diện “thượng cấp”, ông đã yêu cầu tôi sắp xếp công việc, rồi về nhận nhiệm vụ mới. Tôi đã xin ông cho tôi hoãn một thời gian nữa. Tôi cũng đã trình bày trường hợp vi phạm của bạn tôi và xin ông nhẹ tay.
Ông Vinh sau đó cho tôi biết, theo ý “thượng cấp”, Hoà sẽ thay tôi ở Đà Nẵng chiụ trách nhiệm toán HECTOR II, nếu không thì phải có sự đồng ý của cấp chỉ huy TTHL Quyết Thắng. Được ông Vinh phân công, tôi sẽ gặp ông Nông A Pan (Tức Võ Văn Đang), một thẩm quyền cũ của tôi tại Lào và Đà Nặng. Tôi đã cố thuyết phục ông, thậm chí còn lấy cá nhân tôi để bảo đảm cho lời nói. Sau khoảng một tiếng đồng hồ sau, tôi và ông Vinh đã gặp nhau. Ông hỏi :
- Kết quả thế nào ?
Tôi cười và nói ngay :
- Bây giờ chúng ta phải quay lại TTM.
Thú thật khi đón Hòa ra khỏi trại tù, tôi còn gặp các anh em còn lại chưa được thả. Họ cũng có ý định nhờ tôi giúp. Tôi biết là khả năng có hạn, nên tôi cảm thấy buồn khi không trả lời họ.
Khi định đáp máy bay đi Đà Nẵng thì được ông Giám Đốc hỏi chuyện về lời hứa với Thiếu tướng Lãm, Tư Lệnh Quân Đoàn I và về việc Trung tướng Thiệu, Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc Gia, gọi tôi về trình diện. Tôi đã thuyết trình về kế hoạch nhảy vào Thường Đức với ông. Tôi trình bày kế hoạch tuyển người, phương tiện máy bay để thả các toán xuống sát biên giới Lào - Việt, để toán không dùng máy liên lạc dễ bị lộ mà chỉ dùng máy định vị, thời gian xâm nhập và di chuyển khi hoàn tất nhiệm vụ, việc không yểm cho 3 bãi đất trống ở Thường Đức... Tôi cũng xin ông cho mấy anh em phạm lỗi được đoái công chuộc tội bằnh cách cho họ tham gia vào chiến dịch này.
“Thượng cấp” đã đồng ý thả 4 người, vốn đã qua huấn luyện tại trại Quyết Thắng là các anh Toán, A, Sáng, và Tân. (Như đã đề cập ở trên.)
Tôi đã ghé Hoà Cấm, lấy thêm 2 người H ‘Mông và 2 người Vân Kiều trước đây đã sống ở Thường Đức. Cả toán Biệt Kích, gồm 8 người, đã thực tập, thao dợt tại một sân bay cũ của TQLC Mỹ, và thực tập đổ bộ bằng trực thăng cả tuần lễ. Sau khi thuần thục, toán đã được thả xuống biên giới Việt - Lào vào đầu tháng 7-1966. Với vỏ bọc là người Thượng, mang theo đặc sản của núi rừng để đổi lấy muối, họ đã nói như người Thượng, mặc quần áo rách rưới, đeo những “gùi” của người Thượng với phiá trên là cá khô, thịt rừng khô nhưng dưới là máy truyền tin và súng đạn. (Cũng cần nói rõ, người Thượng ở đây đã có cuộc sống vô cùng khó khăn và nghèo khó vì chiến tranh.)
Theo dõi máy định vị, tôi biết toán đã rời bãi đáp, đang len lỏi từ sát biên giới đi dần vào vùng Thường Đức, đang thu nhặt tin tức tình báo và đánh dấu vị trí địch quân. Trong khi đó, pháo binh của TQLC Mỹ và máy bay ném bom sẵn sàng can thiệp khi cần. Khi máy định vị bị tắt bất ngờ thì cả toán sẽ là những con chốt thí. Sau 2 tuần, toán đã ra được Bãi Số 2 và dùng PCR 64 liên lạc. Tại hậu cứ Đà Nẵng, trực thăng và máy bay yểm trợ đã sẵn sàng cất cánh, bốc về. Sau khi toán vừa rời khỏi bãi đáp thì hoả lực của Không Quân và Pháo Binh đã nhịp nhàng tác xạ vào các vị trí mà máy định vị đang liên tục phát sóng. Các đơn vị Quân đội đang án binh chờ lệnh cùng tiến vào đánh đuổi VC ra nơi đây, ngay lập tức. QĐ I đã giải tỏa Thường Đức ngay ngày hôm ấy.
Toán đang nghỉ ngơi khoảng 3 ngày tại Đà Nẵng thì được Thiếu Tướng Lãm, đến tận nơi, ân thưởng huy chương cho những nguời có công. Từ đấy, dù ông cùng đoàn tuỳ tùng đi đâu, vào bất cứ lúc nào, khi thấy anh em Biệt Kích, ông đều cho xe dừng lại. Ông gọi thân mật họ là “bọn chết sống lại”, và cho ngồi chung xe quá giang. Đó là tình cảm ông dành cho anh em Biệt Kích. Chúng tôi không bao giờ quên được tình cảm của NT đã dành cho chúng tôi. Trong toán vừa thực hiện xong nhiệm vụ, 4 người đã ở QĐ I được ở lại Đà Nẵng. Bốn người đã phạm lỗi trước đó thì được tha cho về phục vụ các toán của Mỹ tại Vùng III Chiến Thuật.
Hạ tuần tháng 7 năm 1966, Trung tá Nguyễn Khắc Bình và Trung tá Hồ Văn Kỳ Thoại đã ra thanh tra và chuyển giao một số cơ sở đường biển cho đơn vị khác. Nhân dịp này, các NT muốn biết các nhận xét về hiệu quả hoạt động của các toàn và kết quả chương trình huấn luyện tại Trung Tâm Quyết Thắng. Tôi đã thẳng thắn trả lời :
- Tinh thần các khoá sinh thì cao nhưng kinh nghiệm di chuyển trong rừng núi khá yếu, thể chất không đủ dẻo dai, dễ bị đối phương theo dõi.
- Tại sao ? Ông hỏi.
- Rèn luyện thể chất ở trại Quyết Thắng kém hơn ở Nha Trang hay Đà Nẵng. Vì ở đây, chạy trên cát nên sức khoẻ các học viên rất dẻo dai và nhanh nhẹn khi di chuyển trong rừng.
Trung tá Bình gật gù tỏ vẻ đồng ý. Một thời gian sau, ông đã chuyển một số toán ra Đà Nẵng.
Cuối tháng 7-1966, qua các công điện từ vùng hoạt động của H1 (tức Nguyễn Hữu Luyện), tôi biết toán HECTOR 2 còn phải chờ một thời gian nữa trước khi được cử đi công tác. Tôi đã xin thượng cấp cho cả toán 2 về Saigon nghỉ phép và chờ lệnh xuất phát để họ yên tâm, cũng như để thân nhân họ không đặt câu hỏi là người nhà của họ ở đâu.
Tháng 8-1966, trên yêu cầu, sau khi nghỉ phép, toán 2 phải ở trong khu vực cấm chờ đi công tác. Vì thế cả toán đã đáp chuyến máy bay C123 từ Đà Nẵng về Saigon. Trong chuyến máy bay này có Trung tá Nguyễn Khắc Bình và gia đình cùng đi. Trung tá Bình chuyển về Saigon để nhậm chức Tham Mưu Trưởng Sở Kỹ Thuật lúc bấy giờ.
Toán 2 được đưa về “khu vực cấm” tại TTHL Quyết Thắng. Khi được đi phép, tôi đã cùng Nghiã về thăm cha mẹ của anh. Riêng tôi còn nhiều việc phải giải quyết, nhất là tình cảm của tôi với người tôi yêu tên Mai Thanh.
Nàng mới tốt nghiệp đại học Sư Phạm và vừa được bổ nhiệm đi Mộc Hóa, một địa phương sát biên giới với Kampuchia. Trăn trở với nỗi lòng riêng, tôi đã cùng nàng đi xem phim tại rạp Rex nhưng thực tâm tôi chẳng biết phim đang chiếu gì. Tôi đang trăn trở nhiều điều nhưng không thể nói thành lời. Tôi chỉ muốn nói cho nàng hiểu rõ tương lai bấp bênh của một người lính như tôi. Tôi đã quen nàng từ khi còn học trường trung học Trưng Vương, từ nhiều năm, trước khi nàng vào Đại học. Trong buổi gặp gỡ đó, nàng đã nói với tôi rất nhiều chuyện : về việc nàng đang dạy học, về việc tôi đang làm, và về tương lai của hai người... Nhưng tôi là người theo đạo Thiên Chúa không dám nói dối nên tôi chỉ là ậm ừ cho qua. Tôi doán là nàng đã ít nhiều hiểu lầm tình cảm của tôi dành cho nàng, nhưng tôi không biết làm sao cho phải. Cuối cùng, tôi chỉ nói với nàng,
- Sau này, nếu anh lấy vợ, người đầu tiên anh chọn sẽ làm em. Bây giờ đất nước đang thời khói lửa, anh còn có nhiệm vụ phải làm nên tạm xa em. Nếu không có gì thay đổi, cuối năm anh sẽ về cùng em đi dự lễ Giáng Sinh.
Lúc chia tay, tôi thoáng thấy thái độ cam phận của nàng cùng nét mặt gượng vui không đủ che dấu nỗi buồn ẩn dấu bên trong. Khi nhớ đến bài hát “Biết Trả Lời Sao ?” của Duy Khánh, tôi mới thấy vô cùng thấm thiá. Sự mâu thuẫn giữa tình cảm tha thiết của tôi đối với nàng và một tương lai vô định, không rõ tương lai của người lính Biệt Kích khiến tôi gần như tuyệt vọng. Tôi đã cố dấu nàng qua bề ngoài bình thường, khá lãnh đạm, trong khi lòng tôi đau đớn không nguôi. Làm sao tôi có thể cho nàng biết rằng tôi đang mang một trách nhiệm lớn lao mà sự thành bại, vốn hung nhiều lành ít, chỉ tùy thuộc một phần vào sức chịu đựng của con người ? Nỗi trăn trở này không phải chỉ mới có khi gặp nàng mà đã nằm sâu trong tiềm thức mà tôi đã dấu chính tôi. Tất cả lời hứa hẹn đều vô nghiã, khi tôi không thể biết rõ tương lai đầy bất trắc của chính mình.
Qua điện thoại với “thượng cấp”, ông Vinh cũng không biết được ý định của tôi sẽ ra sao ? Tôi có trình diện nhiệm sở mới hay không ? Tôi có rời toán 2 hay không ? Vì lời hưá với cha mẹ Nghiã, tôi không đành lòng bỏ Nghiã lại một mình đi công tác mà không có tôi. Đôi lần, tôi đã đặt vấn đề với Nghiã,
- Nếu em muốn trở lại học đường, tôi sẽ cung cấp học phí cho em như lãnh lương hàng tháng tại trại. Hay là em muốn đi đơn vị khác, anh sẽ lo liệu.
Mỗi lần như thế, Nghiã chỉ ậm ừ không chịu trả lời rõ. Tôi cần quyết định về việc chọn lưạ có nên về đơn vị mới hay ở lại đơn vị cũ, nên đã ướm lời hỏi Nghiã,
- Khi anh đi thì em có buồn không ?
- Không buồn. Nghĩa tỏ vẻ tự tin trả lời.
Tôi luôn nghĩ đến cha mẹ Nghĩa tin tưởng gửi gấm cho tôi. Nếu Nghiã có mệnh hệ nào thì tôi làm sao cho ổn thỏa ? Thôi cũng đành, tôi đã làm tròn lời hứa với cha mẹ Nghiã.
Sau kỳ nghỉ phép, toán 2 đã trở lại “Khu vực cấm”, được xây cất riêng biệt với khu trại chính. Khu vực này được 4 bức tường cao ngăn cách rào dây kẽm và một cổng ra vào có Quân Cảnh gác. Trong khu cấm có một hạ sĩ quan ở ngày đêm cùng các toán viên đang chuẩn bị nhảy toán. Trong giai đoạn này, tôi cũng xin lệnh thượng cấp cho Nguyễn Minh Hùng được về lại gia đình vì tình trạng gia cảnh đặc biệt của anh, và cho Nguyễn Ngọc Việt ra làm tại thư viện của trại.
Trong lòng tôi cảm thấy đã dễ chịu vì đã giải quyết được nhiều việc cho nhân viên dưới quyền.
Giờ đây, tôi đã sẵn sàng...
Westminster, ngày 3 tháng 3 năm 2015
Nguyễn Văn Tuyết
H. 21
Friday, May 29, 2015
Làm sao để chôn hai chế độ?
Làm
sao để chôn hai chế độ? Là câu hỏi đươc trả lời trong bài viết mới nhất
của tác giả, 40 năm sau khi một chế độ đã bị chôn. Trần Thiện Phi Hùng
là tác giả có tên trong danh sách nhận giải Viết Về Nước Mỹ 2013. Tác
giả cho biết ông nguyên là lính Hải Quân VNCH; tự lái tầu vượt biển năm
1982, hiện định cư tại Úc. Thư kèm bài, ông viết “Tôi vào lính năm 18
tuổi. 12 năm 4 tháng làm lính. 35 năm chưa về lại VN. Không biết, không
hiểu, nên không dùng được từ ngữ mới sau 75. Hơn nửa thế kỷ mới viết
lại, nên sai nhiều chính tả mong ban biên tập sửa cho. Chuyện cải tạo
Vườn Đào và người tù về sớm nhất có thật 100% là tôi. Phi Hùng.
"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo cho bằng lính Hải Quân".
Tôi sáu năm làm lính, thêm sáu năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên.
Xứ
VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân
có vùng 5 Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn. Như nhiều chàng lính biển khác,
tôi có thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bar, xạo cả với
thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ
giai nhân rồi dính lưới hôn nhơn. Đời lính biển đầy những chuyến hải
hành dài cả tháng mà có vợ thì xác suất nuôi con của thiên hạ rất cao.
Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.
Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông uý.
Ông
bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chánh phủ VNCH mua lại bởi
luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng
hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng
với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi sáu bẩy căn phố. Tôi thằng con trưởng
nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi,
tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải cá nhân.
Làm
lính chưa đầy 6 năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi
đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không. Tôi chỉ
mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh
lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy
thì tự động.
Dù
làm lính hay làm quan, tất ba gai không bỏ. Gái đến cầu tàu rủ rê đi
chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5
ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là
tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ
đi chơi" và vui vẻ đi tù.
Từ
đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi,
tôi đã chọn đã chọn ở lại. Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì
tàu nào cũng lên đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay
khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa; Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường
Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh
tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều. Những
thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn
vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn giùm vào. Tôi
xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự
tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay trở để sống còn.
Chiều
30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của
building 4 tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc
Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua
đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về
Dinh Độc Lập. Tôi rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất
Nước!"
Tôi
rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông
Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi
trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình
nầy được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn. Ở đây chúng
tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu
tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần
Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em
nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ. Nhiều lúc đang ngủ bị dựng
dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý
lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật
nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.
Sau
đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên
một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển
trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là
con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nầy nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.
Qua
Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây
là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn
trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dãy nhà lá dài hàng mấy
chục thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt
trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại.
Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua
đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.
Trại
cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong
trại không ai nhìn ra tôi. Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân
trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn
ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.
Thời
mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi
tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới
lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn,
phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ
lại. Vậy là hết thời vung vít.
Trong
trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự
khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị
báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai
dữ, sẵn sàng đập lộn. Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ
là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng
muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ
và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì tao biết
không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù
muôn năm cho vui.
Đòn
phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi
bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi
đi, tôi còn hâm he:
- Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.
Người
chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một
Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp
mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.
Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À
thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch
của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời
Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến
từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời
tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến
khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề
cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.
Sau
hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung
Uý còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý.
Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi
trả lời:
-
Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc
nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải
tạo!
Tù
cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng
là “đáng ngờ." Saù đó tôi thật là thoải mái dễ sống, không tên nào dám
báo cáo gì hết.
Một
hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý
chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà
đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui
vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía
ngoài. Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi bảo “Hôm nay anh sẽ
làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau.“ Nói xong, viên trung
uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi. Tôi đứng
lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong
phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:
- Anh vô đi.
Giọng
nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi
bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.
Giọng
nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn.
Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá
ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.
A,
phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng
chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường
mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bar nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở
làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?
Cô
ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ
trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời
mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:
-
Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải
loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một
lần.
Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:
-
Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ
của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm,
sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy
tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở
phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn
anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có ba
người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc
di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi biết
anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm
thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên
ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không
biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.
À,
đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị
săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này,
tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:
-
Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm
hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho nầy thì thấy tên anh; Lý
lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc
nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập
kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?
- Cô... Cán bộ. Cô...
Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:
-Trong
trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm.
Anh “chì” lắm ma, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý
nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà Mau?
-
Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thuỷ thủ quèn mà làm
tàng... Nhớ đi. Ráng coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi
có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau
mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...
À
á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mưới mấy năm trước,
hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huấn luyện quân sự ở Nha Trang,
tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham
dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi
mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi
la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ
các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc
tông.
Cũng
trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba
nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh
Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn
chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn
con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác
với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ
thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng
chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
"
Các cô có biết 4 dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh
Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho
đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử
Bắc hay Sinh Nam Tử Nam thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa
hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh
nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:
“Anh
nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem
giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà
đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía
sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói
nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai
sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải
quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả
người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét
xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều
người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau
lưng cả. Anh nhớ ra chưa?
Thấy giọng cô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:
- A...A... Cô có thể cười cho tôi coi không?
- Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai núm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai núm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.
-
Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn
nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó mà cô bé, cô bé....
Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má núm đồng tiền bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.
- Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:
-
Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi
mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một
đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.
-
Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo. Chắc anh không thể ngờ là khi
về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng
tàu của anh đã đi rồi.
- Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.
-
Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi
được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo
dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học
thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi
chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải
phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp
lại anh...
Tôi nói:
-
Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là
người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi
lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm.
-
Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên.
Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không
còn vết xâm nữa. Tôi đã xoá bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn
dấu vết hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:
-
Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm
Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy.
Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tung tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp
lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến
địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải
nhà của mẹ anh. Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính
bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình
trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt
tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn
là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái
nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng
anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao
mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?
- Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
-
Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn
tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ
anh rằng tôi là người anh thương. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng
chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai
đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng
họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay
gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải
nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.
Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin. Tôi nói:
- Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.
- Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.
Chuyện
tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe
chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập
kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn
mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra
tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải
tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ
tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ cô nào về nhà ra mắt mẹ.
Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là người tình
của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có
khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
-
Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc
tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có ngày
liên lụy. Xin cô tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được rồi.
Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:
-
Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi
nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi.
Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi
nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại
giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.
Đúng
như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải
thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc
tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút. Mọi lời lẽ tù nói với người thăm gặp
phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi
cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó mặt
cho số mệnh. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi
cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi
khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất?
Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số
phận.
Tháng
Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô
chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn
gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.
Bất
ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang
theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân
trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có
anh chỉ còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi
ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn cuộc bộ, không thấy có quản chế
súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:
- Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh tha.
- Tha về hả cán bộ?
- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?
Cả
bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý
xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người,
anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có
tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và
người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới
nói chuyện.
Cừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
-
Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ
phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ
đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền
chiếu v, gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ
tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân
nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại. Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt
đối không được liên lạc với các trại viên cũ.
Hôm
sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng
ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau,
đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm
nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là
người bảo lãnh.
Cán
bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà
mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu,
“xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi
chợ dùm. Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức
ăn. Cán bộ nói:
- Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế
là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo,
gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá
bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao
Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ nầy
cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.
Tiệc
chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt
heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạt. Thức ăn gần như còn nguyên
vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc giá
đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho
mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.
Ra
khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng
rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám
nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
- Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.
*
Là người tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.
Sau
khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề
nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay tán thành.
Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công
cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước,
ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi
phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân
ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe
nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.
Mỗi
tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi 3
hay 4 ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến,
tin cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà
đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng
có lần cô ta biệt tăm luôn 3 tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều
quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!
Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:
-
Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em
làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để
nghĩ suy và trả lời em.
Mẹ
tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi
thì nghĩ không hẳn. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay
gmuốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm
gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người
giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới
lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.
Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.
-
Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất
gì cả, kẻ mất nhiều nhứt là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao
sau này anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an toàn không.
- Anh có cần có tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.
Tôi
nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đủa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy
cung không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để tầm kẻ thù; Không
hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp
thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì hay là ai tính sau,
cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.
Tàu
vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người
do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26
người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà
trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái được chứ ?
-
Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra
hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang
Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.
Tôi
lái suốt 5 ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm
thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày
một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tỵ nạn Kuku. Một tháng sau
chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải
quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.
Trên
bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô
đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu
cơm chung rồi chung giường và thành vợ chồng thật.
Ở
Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba
hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi
tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu
hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày
xanh cho những tháng nghĩ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán
cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ nầy về thì e rằng cô bí
thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình
các ông cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối viếtsổ lưu niệm và cũng
không đến quán hội họp nữa.
Cũng
tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được
mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo
nầy khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:
-
Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập
một đoàn quân để trở về dành lại VN. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao
giờ giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau
mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết;
Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng
dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản. Chỉ một đêm là xong
gần triệu mạng...
Sáu
tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào,
không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ
bí thư đảng viên.
Cô
ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không
sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của
cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến
nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi;
nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức
gì.
Mất
nước bốn mươi năm, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý
định về thăm lại quê hương. Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong
lòng vợ tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi
chúng tôi chết thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy
là chôn xong hai chế độ. Ngày ấy không xa.
Kỹ niệm 40 năm
Trần Thiện Phi Hùng
Saturday, May 23, 2015
Wednesday, May 6, 2015
DANH SÁCH CHƯ VỊ THỦY QUÂN LỤC CHIẾN TỬ TRẬN Ở HUẾ VÀ ĐƯỢC CẢI TÁNG VÀ ĐƯỢC GỬI VÔ CHÙA
DANH SÁCH CHƯ VỊ THỦY QUÂN LỤC CHIẾN TỬ TRẬN Ở HUẾ VÀ ĐƯỢC CẢI TÁNG VÀ ĐƯỢC GỬI VÔ CHÙA
Xin giúp phổ biến trang Blog Gia Đình Nha Kỹ Thuật / QLVNCH
Chào anh ,
Kính gửi anh share giúp mọi người .
Vì số lượng quá nhiều và các bia đã bị bể nên phần nào ghi chép không đầy đủ hoặc sai lệch . Tôi đang làm sơ đồ vị trí cho từng ngôi nhưng chưa hoàn thành để thân nhân dễ dàng tự đi tìm sau này .
Nghe nói tất cả đều tử trận trong đồn Mang Cá Huế.
Thanks .
KHU 1 | ||||
STT | HỌ & TÊN | CHỨC VỤ | NƠI CÔNG TÁC | TỬ TRẬN |
1 | Đỗ Văn Hợp | |||
2 | Tống Ngãng | |||
3 | Huỳnh Ngọc Quý | |||
4 | Trần Lao | |||
5 | Huỳnh Văn Nhiêu | |||
6 | Nguyễn Văn Phương | |||
7 | Nguyễn Văn Bộ | |||
8 | Phan Đặng Ngọc | |||
9 | Nguyễn Văn Ngọc | |||
10 | Phan Văn Tri | |||
11 | Nguyễn Văn Quân | |||
12 | Nguyễn Lợi | |||
13 | Trần Văn Sen | |||
14 | Võ Tiểu | |||
15 | Nguyễn Đình Tròn | |||
16 | Lê Quốc Quân | |||
17 | Võ Văn Phúc | |||
18 | Tr Tr Tiễn | |||
19 | Nguyễn Thanh | |||
20 | Hàng Tử | |||
21 | Lê Ngọc Ngâm | |||
22 | Nguyễn V Tô | |||
23 | Nguyễn Mới | |||
24 | Nguyễn Nhâm | |||
25 | Võ Ngọc Lan | |||
26 | Nguyễn Hào | |||
27 | Trần V Hùng | |||
28 | Lê Văn Phịn | |||
29 | Nguyễn V Hạnh | |||
30 | Huỳnh Anh | binh nhì | ||
31 | Nguyễn Quỳnh | |||
32 | Trần Miêu | |||
33 | Thái Bá Tường | |||
34 | Nguyễn Đoài | |||
35 | Lê Văn Cư | |||
36 | Lang Lương Quân | |||
37 | Nguyễn Tỏa Xa | |||
38 | Lê Công Cam | |||
39 | Nguyễn Văn Kế | |||
40 | Cao Văn Sáu | |||
41 | Nguyễn Quý | trung sỹ | ||
42 | Nguyễn Huỳnh | |||
43 | Trần Ai | |||
44 | Võ Quốc Đạo | |||
45 | Ngô Văn Hiếu | |||
46 | Lê V Ngây | |||
47 | Huỳnh Mươn | |||
48 | Trương Thu | |||
49 | Phi Văn Thịnh | |||
50 | Lương Văn Tùy | |||
51 | Hồng Chiến Thắng | |||
52 | Trần Sơ | |||
53 | Nguyễn Thi Hương | |||
54 | Trần Đình Long | |||
55 | Lê Lênh | |||
56 | Nguyễn Văn Tùy | |||
57 | Võ Đình Ri | |||
58 | Trần Binh | |||
59 | Nguyễn Xuân | |||
60 | Nguyễn Thành | |||
61 | Nguyễn Trà | |||
62 | Đoàn Tròn | |||
63 | Nguyễn Văn Châu | |||
64 | Lê Văn Tông | |||
65 | Đoàn Cần | |||
66 | Nguyễn Mừng | |||
67 | Nguyễn Giàu ( Diau) | |||
68 | Bùi Đoàn | |||
69 | Võ Văn Thi | |||
70 | Nguyễn Tr Thành | |||
71 | Nguyễn Văn Xuyên | |||
72 | Trương Tạ | |||
73 | Hồ Văn Mạnh | |||
74 | Nguyễn Ngọc Thư | |||
75 | Võ Tấn | |||
76 | Huỳnh Bậy | |||
77 | Phạm Búa | |||
78 | Phạm Dũ | |||
79 | Nguyễn Trơ | |||
80 | Nguyễn Hữu Binh | |||
81 | Nguyễn M Tam | |||
82 | Nguyễn Phước | |||
83 | Bùi V Hương | |||
84 | Nguyễn Mua | |||
85 | Huỳnh Văn Trớt | |||
86 | Đặng Rương | |||
87 | Huỳnh Ngon | |||
88 | Chu Quang Thúc | trung úy | ||
89 | Vũ V Hai | |||
90 | Phạm Viêm | |||
91 | Đinh Văn Cu | |||
92 | Võ Văn Hai | |||
93 | Phạm Lượm | |||
94 | Dương Xuân Linh | |||
95 | Đỗ Giới | |||
96 | Lê Nghi | |||
97 | Nguyễn Văn Từ | |||
98 | Nguyễn Điêu | |||
99 | Nguyễn Hường | |||
100 | Lê Văn Long | |||
101 | Nguyễn Thiên | |||
102 | Nguyễn Hữu Thiên | |||
103 | Nguyễn Trai | |||
104 | Trần Kỳ An | |||
105 | Ngô An | |||
106 | Lâm Tài | |||
107 | Trần Văn Quang | |||
108 | Nguyễn Thiện | |||
109 | Phan Tinh | |||
110 | Trần Thế Biên | trung sỹ | ||
111 | Ten T Phê Rô | |||
112 | Nguyễn Hữu | |||
113 | Ngô Dương | |||
114 | Nguyễn Hoa | |||
115 | Trần Văn Hoa | |||
116 | Lê Văn Hồng | |||
117 | Huỳnh Ngọ | |||
118 | Lê Văn Thanh | |||
119 | Nguyễn Dương | |||
120 | Binh Dương | |||
121 | Phạm Lịch | |||
122 | Nguyễn Mịch | |||
123 | Phạm Vân | |||
124 | Hoàn Toại | |||
125 | Hồ Liên | |||
126 | Lê Văn Sang | |||
127 | Nguyễn Kì | |||
128 | Hoàng Thắng | |||
129 | Đinh Hau | |||
130 | Trần Văn Hoàng | |||
131 | Hoàng Kì | |||
132 | Lê Tiếp | |||
133 | Phùng Thương | |||
134 | Bùi Sáu | |||
135 | Nguyễn Muối | |||
136 | Bùi Hưng | |||
137 | Nguyễn Văn Ích | |||
138 | Võ Quết | |||
139 | Phạm Hơn | |||
140 | Quan Minh | |||
141 | Phạm Văn Thắng | |||
142 | Lê Gia An | |||
143 | Đặng Văn Thao | |||
144 | Đỗ Dục | |||
145 | Nguyễn Việt | |||
146 | Ngô Quế | |||
147 | Bùi Hòa | |||
148 | Nguyễn Ngàn | |||
149 | Lưu Quân | hạ sỹ | ||
150 | Phạm Ngoc Dương | |||
151 | Nguyễn Long | |||
152 | Phan Cao Hoan | |||
153 | Trần Qua | |||
154 | Trần Thành | |||
155 | Nguyễn V Uông | |||
156 | Phùng Vui | |||
157 | Nguyễn Thọ | |||
158 | Lê Lạc | |||
159 | Đoàn Văn Châu | |||
160 | Ngô Tý | |||
161 | Nguyễn Mẹo | |||
162 | Diệp Minh | |||
163 | Phan Tám | hạ sỹ | ||
164 | Đinh Văn Bảy | hạ sỹ | ||
165 | Lê Văn Tú | |||
166 | Lê Văn Ông | |||
167 | Trần Văn Phả | |||
168 | Nguyễn Tý | |||
169 | Nguyễn Văn Y | |||
170 | Trần V Cáp | |||
171 | Trần Tông | |||
172 | Phan Mão | |||
173 | Phạm Tý | |||
174 | Thạch Phia | |||
175 | Phạm Duyên | |||
176 | Nguyễn Son | |||
177 | Lê Minh Hùng | |||
178 | Trần Quang | |||
179 | Đặng Văn Dung | |||
180 | Phạm Văn Lượm | |||
181 | Vũ Như Hòa | |||
182 | Nguyễn Nậy | |||
183 | Trần Bá Toàn | |||
184 | Trần Nhạn | |||
185 | Lê Ngọc Mai | |||
186 | Nguyễn Hạt | |||
187 | Ngô Văn Đính | |||
188 | Nguyễn Văn Đèn | |||
189 | Nguyễn Khải | |||
190 | Trần Gạch | |||
191 | Hữu Thiết | |||
192 | Nguyễn Giang | |||
193 | Đăng Hoa | |||
194 | Lê Sum | |||
195 | Phạm Văn Chước | |||
196 | Nguyễn Ken | |||
197 | Nguyễn V Cường | |||
198 | Nguyễn Lớn | |||
199 | Nguyễn Lê | hạ sỹ | ||
200 | Trịnh Xuân Hùng | |||
201 | Lê Chân | |||
202 | Trịnh Văn Chóc | |||
203 | Nguyễn Thanh Khiến | |||
204 | Nguyễn Hích | |||
205 | Đào Văn Viên | |||
206 | Nguyễn Le | |||
207 | Phan Ty | |||
208 | Trần Nam | |||
209 | Lê Tuấn | |||
210 | Võ Văn Ngọ | |||
211 | Lê Quyên | |||
212 | Phạm V Quân | |||
213 | Nguyễn Lý | |||
214 | Nguyễn Văn Mui | |||
215 | Thái Đảng | |||
216 | Lương Ba | |||
217 | Trần Trọng Hiếu | |||
218 | Nguyễn Tri | |||
219 | Trần Mác | |||
220 | Trần Công Chuẩn | |||
221 | Nguyễn Văn Bắc | |||
222 | Nguyễn H Nhạc | |||
223 | Phạm Văn Dan | |||
224 | Phạm Canh | |||
225 | Lê Ba | |||
226 | Trương Cung | |||
227 | Nguyễn Văn Lẹ ( Vẹ ) | |||
228 | Lê Quang Hoành | |||
229 | Lương Dục | |||
230 | Nguyễn Trân | |||
231 | Lê Ngọc | |||
232 | Lê Quý Phát | |||
233 | Phương Ngọc Đinh | |||
234 | Nguyễn V Đông | |||
235 | Nguyễn Kính ( Vinh ) | |||
236 | Phạm Văn Cương | |||
237 | Vũ Quan Trung | |||
238 | Nguyễn Phương | |||
239 | Nguyễn Tuyến | |||
240 | Tạ Văn Vân | |||
241 | Nguyễn V Tân | |||
242 | Cùng các vị chưa biết tên khác |
KHU 2 | ||||
STT | HỌ & TÊN | CHỨC VỤ | NƠI CÔNG TÁC | TỬ TRẬN |
1 | Nguyễn Văn Đo | |||
2 | Trần Văn Tươi | |||
3 | Dương Mọi | |||
4 | Dương Văn Tứ | |||
5 | Hồ Phương | |||
6 | Tạ Văn Ngọc | |||
7 | Cao Hiếu | |||
8 | Hoàng Lầy | |||
9 | Trương Văn Đương | |||
10 | Nguyễn Rụi | |||
11 | Trần Văn Thuận | |||
12 | Trần Son | |||
13 | Trần Chớ | |||
14 | Huỳnh Mọi | |||
15 | Lê Ngâm | |||
16 | Ngô Vun | |||
17 | Nguyễn Hưng | |||
18 | Nguyễn Thái | |||
19 | Lê Dần | |||
20 | Cao Ganh | |||
21 | Tống P Thành | |||
22 | Nguyễn Ly | |||
23 | Nguyễn Quý | |||
24 | Phan Thế | |||
25 | Đỗ Văn Minh | |||
26 | Nguyễn Văn Sang | |||
27 | Nguyễn Văn Lộc | |||
28 | Nguyễn Tản | |||
29 | Nguyễn Văn Dữ | |||
30 | Hà Văn Tây | |||
31 | Trần Văn Ngân | |||
32 | Bùi Xuân Quan | |||
33 | Trương N Bích | |||
34 | Nguyễn Văn Ba | |||
35 | Đỗ Văn Bé | |||
36 | Nguyễn Tuấn Lộc | |||
37 | Đặng Văn Mai | |||
38 | Quang Dương | |||
39 | Trần Dược | |||
40 | Nguyễn Văn Tân | |||
41 | Đỗ Ế | |||
42 | Trần Phong | |||
43 | Trần Văn Linh | |||
44 | Nguyễn Văn Tiến | |||
45 | Nguyễn Tiến | |||
46 | Bùi Đức Trinh | |||
47 | Cùng các vị chưa biết tên khác |
KHU 3 | |||||
STT | HỌ & TÊN | CHỨC VỤ | NƠI CÔNG TÁC | TỬ TRẬN | |
1 | Phan Văn Thương | ||||
2 | Nguyễn Đa | ||||
3 | Bùi Diệu | ||||
4 | Phạm Cép | ||||
5 | Nguyễn Bân | ||||
6 | Nguyễn Văn Ba | ||||
7 | Nguyễn Văn Ngừng | ||||
8 | Lương Chí | ||||
9 | Lê Cương | ||||
10 | Lê Y Chan | ||||
11 | Nguyễn Thiết | ||||
12 | Trần Đôi | ||||
13 | Nguyễn Sàn | ||||
14 | Lê Mai | ||||
15 | Nguyễn Dinh | ||||
16 | Trịnh Quang Tấn | ||||
17 | Trần Văn Chân | ||||
18 | Viên Tường Thương | ||||
19 | Trần Chí | ||||
20 | Nguyễn Mẫn | ||||
21 | Nguyễn Văn Phu | Trung Úy | |||
22 | Nguyễn Hố | ||||
23 | Trần Văn My | ||||
24 | Nguyễn Thanh | ||||
25 | Bùi Kiều | ||||
26 | Nguyễn Tri | ||||
27 | Hoàng T Nậy | ||||
28 | Nguyễn Tiền | ||||
29 | Không Trọng Chuẩn | ||||
30 | Hồ Sân | ||||
31 | Lê Truyền | ||||
32 | Đoàn Nam | ||||
33 | Ngô Điêu | ||||
34 | Phạm Ổng | ||||
35 | Hoàng Rác | ||||
36 | Trần Sến | ||||
37 | Phan Tất | ||||
38 | Lê Nhơn | ||||
39 | Nguyễn Vy | ||||
40 | Huỳnh Thị Hiếu | ||||
41 | Nguyễn Thu Học | ||||
42 | Nguyễn Dai | ||||
43 | Thái Văn Mầu | ||||
44 | Phạm Văn Út | ||||
45 | Đinh Văn Cương | ||||
46 | Nguyễn Hữu Hùng | ||||
47 | Huỳnh Đức Thanh | ||||
48 | K.C On | ||||
49 | Nguyễn Tang | Hạ Sỹ | |||
50 | Phan Văn Tư | ||||
51 | Ngô Thi | ||||
52 | Nguyễn Văn Kỳ | ||||
53 | Trần Đang | ||||
54 | Nguyễn Quốc Ngân | ||||
55 | Nguyễn Văn Khu | ||||
56 | Phan Lụa | ||||
57 | Ngô Truyền | ||||
58 | Huỳnh V Lé | ||||
59 | Nguyễn Giàn | ||||
60 | Lê Hội | ||||
61 | Nguyễn Hè | ||||
62 | Võ Đình Tôn | ||||
63 | Trần Xuân Tinh | ||||
64 | Mai Phong | ||||
65 | Lê Đắt | ||||
66 | Đoàn Văn Tư | ||||
67 | Lê Văn Khải | ||||
68 | Phạm Quốc Long | ||||
69 | Nguyễn Văn Công ( Ưng ) | ||||
70 | Võ Hoàng | ||||
71 | Bạch lai | Hạ Sỹ | |||
72 | Mai Văn Quốc | ||||
73 | Trương Màm ( Hàm ) | ||||
74 | Phạm Liễu | ||||
75 | Nguyễn Văn Châu | ||||
76 | Trần Hoàng | ||||
77 | Nguyễn Băng | ||||
78 | Hồ Văn Phan | Hạ Sỹ | |||
79 | Trần Khai | ||||
80 | Trần Tửm | ||||
81 | Phạm Tân | ||||
82 | Nguyễn Rần | ||||
83 | Nguyễn Huyền | ||||
84 | Nguyễn Thảo | ||||
85 | Trần Ngim | ||||
86 | Trần Tuyên | Trung Úy | |||
87 | Nguyễn Bé | ||||
88 | Nguyễn Văn Khen | ||||
89 | Diệp B Hoàng | ||||
90 | Hoàng Chân | ||||
91 | Nguyễn Tu | ||||
92 | Vo Cây | ||||
93 | Nguyễn Sấu | ||||
94 | nguyễn Chương | ||||
95 | Võ Y Thi | ||||
96 | Lê Tư | ||||
97 | Phan Tài | ||||
98 | Nguyễn Dung | ||||
99 | Hoàng Tùng | ||||
100 | Nguyễn Văn tài | ||||
101 | Trần Cấm | ||||
102 | Bu Chánh | Hạ Sỹ | |||
103 | Trịnh Nền | ||||
104 | Trương Thanh Phú | ||||
105 | Trần Hà | ||||
106 | Mai Kiệt | ||||
107 | Trần V Cưng | ||||
108 | Trần V Sến | ||||
109 | Cùng các vị chưa biết tên khác |
KHU 4 | ||||
STT | HỌ & TÊN | CHỨC VỤ | NƠI CÔNG TÁC | TỬ TRẬN |
1 | Nguyễn Anh | 6/2/1968 | ||
2 | Nguyễn Đức Ngọc | Trung sĩ | Tiểu đoàn 4/2 | 4/3/1968 |
3 | Dương Văn Long | BSQĐ | Tiểu đoàn 3/1 | 6/3/1968 |
4 | Đỗ Văn Phát | Binh nhì | Tiểu đoàn 4/2 | |
5 | Ngô Văn Quang | Binh nhất | ||
6 | Phạm Kim Anh | Binh nhì | Tiểu đoàn 3/1 | 6/3/1968 |
( Ngô Đình Hiệp ) | ||||
7 | Nguyễn Thu | |||
8 | Võ Văn Ngô | Binh nhì | ||
9 | Hồ A Lộc | Hạ sĩ | Tiểu đoàn 7 | 1/2/1966 |
10 | Văn Công Huỳnh | Hạ sĩ | ||
11 | Điền Kiên | Binh nhất | ||
12 | Nguyễn Văn Thước | Binh nhì | ||
13 | Trần Ngọc Bảo | Binh nhì | ||
14 | Nguyễn Văn Lập | Tiểu đoàn 3/1 | ||
15 | Bùi Văn Hường | |||
16 | Châu Sơn | Binh nhì | ||
17 | Lê Kim Châu | Binh nhất | ||
18 | Võ Ngữ | Hạ sĩ | ||
19 | Nguyễn Tân Vạn ( Văn Vạn ) | Binh nhì | TĐ 5 TQLC | |
20 | Nguyễn Văn Lộc | Binh | ||
21 | Đoàn T. Khiết | |||
22 | Trần Văn Tài | Binh nhất | ||
23 | Nguyễn Văn Ngọt | Binh | TĐ 4 TQLC | 20/02/1968 |
24 | Võ Tấn Thạnh | Binh | TĐ 1 TQLC | 7/3/1968 |
25 | Võ Văn Ni | Binh nhì | TĐ 1 Nhảy dù | |
26 | Nguyễn Văn Be | B/s | ||
27 | Đỗ Văn Minh | Binh | TĐ 5 TQLC | 2/2/1968 |
28 | Nguyễn Văn Kha | Binh | TĐ 4 TQLC | 7/2/1968 |
29 | Khu Văn Mẫn | Binh | TĐ 1 TQLC | 23/04/1968 |
30 | Lâm Văn Long | Binh | TĐ 1 | 25/02/1968 |
31 | Trần Văn Sáu | Binh | TĐ 5 TQLC | 18/02/1968 |
32 | Danh Sum | Binh | TĐ 5 TQLC | 19/02/1968 |
33 | Vũ Thị Giang Hương | |||
34 | Nguyễn Xe | Hạ sĩ | ||
35 | Phạm Đô | Hạ sĩ | ||
36 | Ba | Hạ sĩ | TĐ 4/3 | |
37 | Trung Văn Hòa | Binh | TĐ 5 TQLC | |
38 | Phan… | TĐ 4/3 | ||
39 | Võ Văn Sạch | Binh | ||
40 | Huỳnh Quang Bình | BS | ||
41 | Lê Minh Canh | BC | ||
42 | Trần Văn Lương | |||
43 | Vô danh 16 | |||
44 | Nguyễn Văn Sơn | Binh nhì | TQLC | |
45 | Trần Văn Dư | Binh | ||
46 | Nguyễn Văn Phương | Binh nhất | ||
47 | Bùi Văn Ơ | |||
48 | Nguyễn Văn Nhẫn | Binh | TQLC | |
49 | Phạm Lưu | Trung sĩ | TĐ 4 TQLC | |
50 | Vô danh | |||
51 | Nguyễn Văn Thái | Binh nhất | ||
52 | Phạm Xuân Chinh | |||
53 | Nguyễn Thái | Trung sĩ | Nhảy dù | |
54 | Trần Thủy Hoàng | Binh nhì | ||
55 | Vô danh | |||
56 | Lê Văn Giang | Binh | ||
57 | Trần Lâu | QĐ | ||
58 | Vũ Ngọc Lý | Trung sĩ | TĐ 1 TQLC | 15/02/1968 |
59 | Bùi Thim | Binh | TĐ BĐO | |
60 | Nguyễn Hoàng | TĐ 4/1 | 13/03/1968 | |
61 | Trần Văn Lé | Binh nhất | ||
62 | Nguyễn Sang | |||
63 | Lê Văn Thông | Binh | ||
64 | Trương Văn Ngầu | Binh nhất | TĐ 7 Nhảy dù | |
65 | Vô Danh | |||
66 | Lê Văn Dâu | Hạ sĩ | TĐ 7 Nhảy dù | 1/2/1968 |
67 | Nguyễn Văn Cường | Hạ sĩ | ||
68 | Lương Ha | QĐ | ||
69 | Vô danh | |||
70 | Nguyễn Cảnh | Hạ sĩ | TĐ 1 TQLC | |
71 | Nguyễn Văn Hương | Hạ sĩ | TĐ 1 TQLC | 15/02/1968 |
72 | Cao Văn Đức | Hạ sĩ | TĐ 1 TQLC | 5/2/1968 |
73 | Nguyễn Ngọc Hồ | Hạ sĩ | TĐ 5 TQLC | |
74 | Trần Văn Sáu | Binh | TĐ 5 TQLC | |
75 | Nguyễn Văn Dừa | LCĐB | TĐ 2/5 | |
76 | Phạm Công Tâm | Binh | ||
77 | Lâm Văn Giàu | BSQĐ | TĐ 3/2 | 7/5/1968 |
78 | Phạm Phước | Binh nhất | TĐ 4 TQLC | 17/02/1968 |
79 | Nguyễn Văn Bi | Hạ sĩ | ||
80 | Đặng Ngọc Thanh | 8/2/1968 | ||
81 | Đặng Tấn Quang | Binh | TĐ 1 TQLC | 26/02/1968 |
82 | Bùi Văn Ranh | Binh | TĐ 5 TQLC | 8/2/1968 |
83 | Nguyễn Văn Kim | Hạ sĩ nhất | TĐ 7 Nhảy dù | 1/2/1968 |
84 | Danh Ương | TD 5 TQLC | 16/2/1968 | |
85 | Lương T Sa | Hạ sĩ | ||
86 | Nguyễn Tấn Sinh | Hạ sĩ | ||
87 | Nguyễn Văn Tánh | Trung sĩ | ||
88 | Lê Văn Mười | Binh | ||
89 | Nguyễn Văn Sum | Binh | ||
90 | Nguyễn Hữu … | Binh nhất | ||
91 | Huỳnh Minh Châu | Trung sĩ nhất | ||
92 | Nguyễn Văn Thọ | Chuẩn úy | ||
93 | Nguyễn Văn Sơn | Binh | ||
94 | Trần Văn Huỳnh ( Hường ) | Binh | ||
95 | Võ Văn Phước | Binh nhì | ||
96 | Đặng Minh Tông | TS | ||
97 | Lý Phú | |||
98 | Nguyễn Văn Lai | Hạ sĩ | ||
99 | Nguyễn Văn Tốt | Binh nhì | ||
100 | Vô Danh | 8/4/1972 | ||
101 | Nguyễn Diệu | |||
102 | Đỗ Phong ( Phụng ) | Binh nhì | ||
103 | Trần Văn Sanh | |||
104 | Nguyễn Văn Cư ( củ ) | |||
105 | Tăng Ngầu | |||
106 | Vô Danh | 1/2/1968 | ||
107 | Trương Ngọc Bích | |||
108 | Châu Giờ | Hạ Sỉ | ||
109 | Nguyễn H Khấc ( Khắc ) | Trung sỉ | ||
110 | Trần Văn Quang | |||
111 | Nguyễn Văn Chính | |||
112 | Bùi Văn Rành ( Ràng ) | Binh | ||
113 | Đăng Tông Quang | Binh nhất | ||
114 | Cầm Quang | Binh nhất | ||
115 | Lê Quang Vinh | Thiếu úy | ||
116 | Vô Danh | Binh nhất | ||
117 | Vô Danh | Binh | ||
118 | Đào Q Khanh | Binh nhất | ||
119 | Huỳnh Văn Đặng | |||
120 | Trần Xuân Thiên | Hạ sỉ | ||
121 | Lê Tý | Binh nhất | ||
122 | Nguyễn Trường Giang | BS | ||
123 | Hà Hữu Sự | Binh nhất | ||
124 | Nguyễn Văn Tròn | Binh | ||
125 | Lê Hoàng khánh | |||
126 | Thái Hữu Hiếu | Binh | ||
127 | Bùi Văn Cúc | Hạ sĩ nhất | ||
128 | Nguyễn Sang | |||
129 | Mai Vy ( Vỵ ) | Binh | ||
130 | Nguyễn Văn Chót | Binh nhì | ||
131 | Trần Văn Sử | Binh nhất | ||
132 | Đỗ Văn Lương ( Cương ) | |||
133 | Khiếu Phát | |||
134 | Lê Phước Cương | Trung úy | ||
135 | Vô Danh | 4/8/1968 | ||
136 | Trương T Hùng | |||
137 | Ngâm Mạnh | |||
138 | Vô Danh số 5 | |||
139 | Truương Yêm | |||
140 | Nguyễn Văn Công | |||
141 | DĐỗ Trọng Cường | |||
142 | Nguyễn Văn Đoàn | |||
143 | Phaạm Xuân Tài | |||
144 | Phạm Văn Bình | |||
145 | Trần Văn Hai | |||
146 | Trần Đình Như | |||
147 | Nguyễn Dần | |||
148 | Trần Đức Nhật | Thiếu úy | ||
149 | Dư Hữu Đức | |||
150 | Lê Lãm | |||
151 | Thạch Tiên | |||
152 | Nguyễn Quang Kiểm | |||
153 | Lê Chồm | |||
154 | Lê Phước | |||
155 | Đặng Văn Nhân | |||
156 | Vô Danh 14 | |||
157 | Nguyễn CHIO | |||
158 | Nguyễn Thanh Tâm | |||
159 | Nguyễn Giáp Liên Hiệp | |||
160 | Nguyễn Nhi | |||
161 | Ân Văn Be | Binh nhất | ||
162 | Trần Quang | |||
163 | Lê Kim Hoàng | |||
164 | Nguyễn Hữu Tường | |||
165 | Nguyễn Văn Sung | |||
166 | Mai Thuận | |||
167 | Trần Văn Thái | |||
168 | Đỗ Liên | |||
169 | Phan Phước Hậu | |||
170 | Vô Danh số 1 | |||
171 | Nguyễn Văn Hạnh | |||
172 | RUM | Hạ sĩ nhất | ||
173 | Nguyễn Mân | |||
174 | Phạm Văn Ban | |||
175 | Nguyễn Văn Bé | |||
176 | Tà Hum | |||
177 | Thái Lành | |||
178 | Nguyễn Lâm | |||
179 | Hứa Quốc Thanh | |||
180 | Nguyễn H Danh | |||
181 | Trần Thanh Ban | |||
182 | Lưu Su | |||
183 | Trần Văn Sơn | |||
184 | Danh Khen | |||
185 | Lê Văn Sơn | |||
186 | Nguyễn Văn Chệp | |||
187 | Võ Văn Kiên | |||
188 | Trần Đức Truyền | |||
189 | Khưu Quốc Lương | |||
190 | Nguyễn Tri | |||
191 | Lê Văn Cu | |||
192 | Hả Cam | |||
193 | Thái Mỹ Hưng | |||
194 | Nguyễn Văn Nam | |||
195 | Bùi Cam | |||
196 | Nguyễn Văn Chuyền | |||
197 | Nguyễn Văn Phước | |||
198 | Huỳnh Ngọc | |||
199 | Nguyễn Văn Mít | |||
200 | Hà Văn Cúc | |||
201 | Nguyễn Văn Dương |
Subscribe to:
Posts (Atom)